Một khác biệt nữa là được thờ phụng tại đây còn có di ảnh của cố Đức ông Trần Văn Hoài và cố Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền. Cố Đức ông Trần Văn Hoài người phục vụ tại Toà Thánh Vatican trong nhiều năm, là người có công vận động Liên Hiệp Quốc đón nhận thuyền nhân VN đến các nước; Cố Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền, địa phận Huế, là người đã bị nhà cầm quyền cộng sản VN giam giữ mười mấy năm trời trong trại tù cải tạo và đã chết sau khi được trả về.
Tượng đài thuyền nhân là hai con thuyền bằng gỗ với những hình tượng thuyền nhân bên trên. Đây là những con thuyền mà thuyền nhân VN dùng để vượt biển đào thoát khỏi chế độ cộng sản tại VN. Theo số liệu của Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn, trong khoảng thời gian 1975-1995 đã có 849.228 người vượt biên bằng đường biển và đường bộ.
Hiện nay chưa có một con số thống kê chính thức về số thuyền nhân bị chết trên biển. Tại một số nước có những tượng đài được dựng lên để tưởng nhớ đến những thuyền nhân VN bị thiệt mạng trong các cuộc vượt biên; tượng đài thuyền nhân ở làng A Di Đà cũng là một điển hình trong các tượng đài đó.
Sự nguy hiểm, đau xót trên con đường vượt biên bằng đường biển của người VN là không kể xiết; vì thế sau này có nhiều câu chuyện kể về chuyến vượt biển của những con người đứng trước chín phần chết một phần sống, trong cái chết họ chỉ biết cầu nguyện Đức Quán Thế Âm Bồ Tát hoặc Đức Mẹ Maria; rồi thì có những sự hiển linh và họ đã được cứu sống. Cho nên thầy Thích Thông Lai đã cho xây dựng tượng đài Đức Quán Thế Âm Bồ Tát và Đức Mẹ La Vang VN ở hai bên tượng đài thuyền nhân, để cư dân trong làng của cả hai tôn giáo này có thể đến cầu nguyện bất cứ lúc nào.
Phía trước, hai bên tượng đài Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát được dựng hai ngôi miếu nhỏ xíu nằm trên hai cây cột như hai ngôi chùa một cột; miếu bên trái thờ các thai nhi chết khi còn nằm trong bụng mẹ hoặc vừa mới được sinh ra, miếu bên phải thờ các vong linh của các “Đồng Bào Tử Nạn Trên Đường Vượt Biên", với mục đích làm nơi cầu siêu và tưởng niệm bất vụ lợi hàng năm cho các đồng bào bất hạnh đã mất tích hay tử nạn trên đường vượt biên tìm tự do.
Trong mỗi miếu nhỏ này có đặt hình tượng của các thai nhi và các thuyền nhân bằng pha-lê lấp lánh trong ánh sáng của ngọn đèn led nhỏ. Một vài cư dân trong làng A Di Đà có kể lại rằng thỉnh thoảng vào những đêm hôm khuya khoắt, họ bắt gặp nhưng vong hồn lặng lẽ của các sinh linh đã chết này xuất hiện trước các miếu thờ (!).
Ngoài các kiến trúc chính trên, còn phải kể đến các kiến trúc khác như gác chuông đồng rất lớn bên cạnh tượng đài Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát; Nhà Vãng Sanh nơi thực hiện tang lễ cho người đã khuất; cuối cùng là nhà thờ Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, bên trong có một “cỗ thọ đường” dùng để cho một người còn sinh thời muốn được trải nghiệm qua một lễ tang của mình như thế nào.
Chính vì những kiến trúc được xây dựng theo mục đích thờ tự không giống như các chùa Phật giáo chính thống, nên đã tạo ra nhiều tò mò cho nhiều du khách đến dâng hương và thưởng ngoạn. Theo thầy trụ trì thì các công trình kiến trúc cần thiết khác vẫn còn đang được tiếp tục lên kế hoạch xây dựng.
Đây là sự phát tâm rộng lớn của các Phật tử gần xa, hy vọng khu làng A Di Đà sẽ sớm được hoàn thành để làm nơi tương trợ tu tập cho các tăng ni và Phật tử, và nơi chăm sóc và trợ niệm cho các Phật tử trong giây phút cuối cùng được dễ dàng vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Có hai nhận xét trái chiều về cách hành xử tôn giáo trong ngôi làng A Di Đà, có người không thích vì họ cho rằng chùa nơi đây không phải là ngôi chùa thờ Phật theo đúng nghĩa, nghi lễ cúng lễ của chùa chưa phù hợp với Phật giáo. Nhưng cũng có người tán thành việc hoà đồng tôn giáo của thầy trụ trì Thích Thông Lai.
Nếu có ai đó lần đầu gặp TT Thích Thông Lai, đều có vẻ e dè trước cách nói chuyện và ánh mắt nhìn như một “hảo hán Lương Sơn Bạt” của TT.
Thầy Thích Thông Lai sinh năm 1952, trước đây là sĩ quan Tuyên Uý trong Quân lực VNCH, hiện nay tuy vẫn là một nhà tu hành, nhưng TT Thích Thông Lai vẫn nhận định rằng chế độ cộng sản là ác nghiệt với dân chúng, với chúng sinh, không phù hợp với sự từ bi của Phật giáo, cho nên quan điểm của TT là cho dù không thể tu thành đấng A La Hán, đấng Bồ Tát, hoặc có tái sinh một kiếp nhân trần khác TT cũng không chấp nhận chế độ này trong cõi ta bà.
Dịch:
Đói thì ăn, mệt thì ngủ.(Trần Nhân Tông)
No comments:
Post a Comment