Joseph Mercola
Tiến sĩ Joseph Mercola là người sáng lập Mercola.com. Ông là bác sĩ chấn thương chỉnh hình, tác giả sách bán chạy nhất và nhận nhiều giải thưởng trong lĩnh vực sức khỏe tự nhiên, mơ ước lớn nhất của ông là thay đổi mô hình y tế hiện đại bằng cách cung cấp cho mọi người một nguồn tài nguyên có giá trị để giúp họ kiểm soát sức khỏe của mình. Bài báo này ban đầu được xuất bản trên Mercola.com.
Vitamin D cung cấp và điều chỉnh biểu hiện của hàng trăm gen và không thể thiếu đối với các chức năng sinh học có ảnh hưởng đến mọi hệ thống của cơ thể. Sự thiếu hụt của vitamin D có thể gây ra một số triệu chứng suy giảm sức khỏe tổng quát mà bạn có thể gặp hoặc có liên quan đến các tình trạng sức khỏe khác.
Vitamin D còn được gọi là vitamin ánh nắng mặt trời vì da của bạn tạo ra vitamin D khi tiếp xúc với tia cực tím từ mặt trời. Vitamin D thực hiện nhiều chức năng trong cơ thể, bao gồm duy trì mức canxi và phosphate đầy đủ cần thiết cho quá trình duy trì và bảo vệ sự tồn tại của xương.
Vitamin D giúp làm giảm viêm và rất cần thiết cho việc điều chỉnh sự phát triển của tế bào và chức năng miễn dịch. Vitamin D cũng có ảnh hưởng đến các gen biệt hóa tế bào trong cơ thể và quá trình apoptosis (tế bào chết theo quy trình).
Chỉ số chính về mức vitamin D của bạn là 25-hydroxyvitamin D (25OHD). Dữ liệu được thu thập từ Cuộc Kiểm tra Sức khỏe và Dinh dưỡng Quốc gia trong năm 2005-2006 cho thấy tỷ lệ thiếu hụt Vitamin D trong dân số Hoa Kỳ là 41.6%. Tuy nhiên, ở phần sau của bài viết này cho thấy rằng, ngày nay có tới 80% dân số có thể thiếu chất vitamin D.
Điều quan trọng cần lưu ý là cách xác định tình trạng thiếu hụt và suy giảm để chúng ta có thể bổ sung một cách đúng mức. Một số nhà nghiên cứu sử dụng mức 20 nanogam trên mililit (ng/ mL) hoặc 50 nanogam trên lít (nmol/ L); Đơn vịng/ml được sử dụng thường xuyên nhất ở Hoa Kỳ và nmol/ L là tiêu chuẩn ở Châu Âu.
Tuy nhiên, Viện Nghiên cứu Dinh dưỡng Y tế Cơ sở khuyến nghị nồng độ vitamin D trong huyết thanh từ 40ng/ml đến 60ng/ml hoặc 100 nmol/ L đến 150 nmol/ L. Ở mức độ này, số người sử dụng có khả năng thiếu vitamin D sẽ cao hơn đáng kể.
Các dấu hiệu thiếu hụt Vitamin D
Điều rất cần thiết là sự duy trì mức vitamin D để được khỏe mạnh đồng thời giảm nguy cơ mắc bệnh do virus và vi khuẩn trong mùa lạnh v.v… Xét nghiệm máu là cách tốt nhất để xác định mức vitamin D của bạn.
Sau đây là một số triệu chứng cho thấy cơ thể bạn đang có mức thấp:
Đau cơ bắp
Gần một nửa số người trưởng thành bị ảnh hưởng bởi đau cơ. Các nhà nghiên cứu tin rằng hầu hết người trưởng thành này đều thiếu vitamin D. Một số nghiên cứu đã gợi ý rằng các dây thần kinh có thụ thể vitamin D sẽ ảnh hưởng đến tiếp nhận cơn đau. Một nghiên cứu trên động vật đã chứng minh rằng một chế độ ăn uống thiếu vitamin D có thể gây ra tăng nhạy cảm cơ sâu không liên quan đến mức thiếu hụt của Canxi.
Đau nhức xương
Vitamin D điều hòa hàm lượng canxi trong cơ thể của bạn, cần thiết để bảo vệ sức khỏe của xương. Thiếu vitamin D có thể khiến xương của bạn mềm đi, hay còn được gọi là nhuyễn xương. Đây có thể là dấu hiệu báo trước của bệnh loãng xương.
Mệt mỏi
Đây là một triệu chứng phổ biến của một loạt các tình trạng sức khỏe khác nhau, bao gồm cả tình trạng thiếu ngủ. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng việc bổ sung vitamin D cho bệnh nhân ung thư đang bị mệt mỏi có thể cải thiện các triệu chứng của họ.
Trong một nghiên cứu có 174 người lớn tham gia, phần lớn có triệu chứng bị mệt mỏi nhưng có tình trạng sức khỏe ổn định, các nhà nghiên cứu phát hiện 77,2% bị thiếu vitamin D. Sau khi bình thường hóa mức độ cho họ, các triệu chứng mệt mỏi được cải thiện đáng kể.
Giảm hiệu suất cơ bắp
Thiếu vitamin D cũng phổ biến ở các vận động viên cũng như những người khác. Vitamin D rất quan trọng cho sự phát triển của cơ bắp, sức mạnh và sự dẻo dai của cơ thể. Người lớn tuổi bổ sung vitamin D có thể giảm nguy cơ té ngã và cải thiện hoạt động của cơ bắp.
Điều chỉnh bằng cách bổ sung bằng cách uống bổ sung hoặc phơi nắng đúng cách có thể làm giảm các triệu chứng xương bào mòn do căng thẳng, đau cơ xương và bệnh tật thường xuyên. Vitamin D cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của cơ bắp. Trong một bài báo từ Tạp chí Học viện Bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình Hoa Kỳ, tác giả đã viết, “Nếu nồng độ vitamin D trong huyết thanh cao hơn có thể làm giảm tỷ lệ chấn thương và cải thiện thành tích thể thao. Trong một phần nhỏ dân số, vitamin D dường như đóng một vai trò trong sức mạnh của cơ bắp, ngăn ngừa chấn thương và cải thiện thành tích thi đấu thể thao.”
Sức khỏe cho não
Vitamin D cũng rất cần thiết cho sức khỏe não bộ của bạn. Các triệu chứng của sự thiếu hụt có thể bao gồm chứng mất trí do sự gia tăng của beta-amyloid hòa tan và không hòa tan, một yếu tố gây ra bệnh Alzheimer (bệnh sa sút trí tuệ.) Nghiên cứu cũng đã phát hiện ra mối liên quan với chứng trầm cảm có thể liên quan đến chức năng của vitamin D, hoặc có mức canxi cao hơn trong não.
Thiếu vitamin D ở phụ nữ mang thai có thể làm tăng nguy cơ mắc chứng tự kỷ và các rối loạn giống như thể phân liệt ở trẻ. Một nghiên cứu về những người bị đau cơ xơ hóa cho thấy sự thiếu hụt vitamin D phổ biến hơn ở những người bị lo lắng và trầm cảm. Mặt khác, sự thiếu hụt vitamin D ở những người béo phì dường như có liên hệ với chứng trầm cảm.
Ngủ kém
Cơ chế liên kết giữa vitamin D và chất lượng giấc ngủ kém vẫn chưa được xác định. Nhưng nghiên cứu đã phát hiện ra những người có hàm lượng vitamin D thấp sẽ có giấc ngủ kém chất lượng và có nguy cơ cao bị rối loạn giấc ngủ.
Đổ mồ hôi đầu
Đổ mồ hôi quá nhiều, đặc biệt là trên đầu, hoặc đổ mồ hôi các nơi khác trên cơ thể cho thấy bạn bị thiếu vitamin D.
Rụng tóc
Vitamin D rất quan trọng đối với sự gia tăng của tế bào tóc và đóng một vai trò quan trọng trong chu kỳ mọc tóc của bạn. Thụ thể Vitamin D dường như đóng một vai trò trong giai đoạn tăng trưởng của tóc, khiến các nhà nghiên cứu kết luận rằng “các phương pháp điều trị hỗ trợ thụ thể vitamin D có thể dẫn đến thành công trong việc điều trị rụng tóc hoặc không mọc tóc và cũng là một lĩnh vực có tiềm năng cần nghiên cứu thêm.”
Vết thương chậm lành
Các vết thương lâu lành là một thách thức lớn đối với sức khỏe cộng đồng. Tại Hoa Kỳ, có tới 2% dân số bị ảnh hưởng bởi các vết thương mãn tính và ước tính con số này chiếm 5.5% chi phí chăm sóc sức khỏe tại Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh quốc. Vitamin D hỗ trợ quá trình chữa lành vết thương và tạo ra cathelicidin, một peptide chống nhiễm trùng vết thương.
Chóng mặt
Bằng chứng từ các nghiên cứu trên động vật cho thấy rằng vitamin D rất quan trọng trong sự phát triển của tai trong, ảnh hưởng đến cân bằng và phối hợp. Phân tích cho thấy những người bị viêm dây thần kinh tiền đình, đặc trưng bởi triệu chứng chóng mặt, cho thấy nồng độ vitamin D trong cơ thể thấp hơn so với những người không bị viêm dây thần kinh tiền đình.
Vấn đề tim mạch
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng vitamin D3 cải thiện tuần hoàn và có thể giúp cải thiện huyết áp cao. Trong một nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng vitamin D3 cũng có ảnh hưởng đáng kể đến các tế bào bên Trong có thể giúp ích cho hệ thống tim mạch của bạn. Họ phát hiện ra rằng nó giúp cân bằng nồng độ oxit nitric và peroxynitrit, giúp cải thiện chức năng nội mô.
Thừa cân
Vitamin D ảnh hưởng đến bệnh béo phì như thế nào vẫn chưa được xác định. Tuy nhiên, dữ liệu cho thấy khả năng vitamin D bị thiếu hụt ở những người béo phì.
Nhiễm trùng tái phát
Đã có nhiều nghiên cứu về hệ miễn dịch cho thấy thiếu vitamin D có thể làm tăng nguy cơ và mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng, đặc biệt là nhiễm trùng đường hô hấp. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng thiếu vitamin D làm tăng nguy cơ mắc bệnh nặng và tử vong, đặc biệt là ở những người bị bệnh nặng.
Giảm chức năng nhận thức
Dữ liệu cho thấy sự thiếu hụt vitamin D làm tăng nguy cơ mất trí nhớ gấp hai lần và làm tăng nguy cơ suy giảm chức năng nhận thức.
80% người mắc bệnh COVID-19 bị thiếu vitamin D
Vitamin D đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển và mức độ nghiêm trọng của nhiều bệnh. Đây là lý do tại sao, ngay từ đầu đại dịch COVID-19, tôi đã tin rằng việc tối ưu hàm lượng vitamin D sẽ làm giảm đáng kể tỷ lệ nhiễm trùng và tử vong trong dân số nói chung.
Kể từ đó, nhiều bằng chứng đã tiết lộ rằng hàm lượng vitamin D cao hơn có thể làm giảm tỷ lệ xét nghiệm dương tính, nhập viện và tử vong liên quan đến nhiễm trùng này.
Một nghiên cứu được công bố vào cuối năm 2020 đã đánh giá nồng độ 25OHD trong đường máu của những bệnh nhân nhập viện với COVID-19 để đánh giá ảnh hưởng của nó đối với mức độ nghiêm trọng của bệnh. Các nhà nghiên cứu phát hiện 82.2% những người có COVID-19 bị thiếu vitamin D (mức thấp hơn 20ng/ml).
Điều thú vị là họ cũng phát hiện ra những người bị thiếu chất này có tỷ lệ mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, nồng độ chất sắt trong máu cao hơn và thời gian nằm viện lâu hơn. Một nghiên cứu thứ hai cho thấy kết quả tương tự đối với những người chỉ xét nghiệm dương tính với COVID-19.
Trong một nghiên cứu khác được công bố vào tháng 08/2021 trên Tạp chí Sinh lý học, Nội tiết và Chuyển hóa Hoa Kỳ, dữ liệu cho thấy các chất chuyển hóa của vitamin có thể ức chế sự sao chép và sinh sôi của SARS-CoV-2, virus gây ra COVID-19.
Điều quan trọng cần nhớ là dữ liệu cho thấy những người thiếu vitamin D có nguy cơ mắc bệnh nặng cao hơn trước đại dịch COVID-19.
Thêm vào đó, các nghiên cứu về vitamin D đã chứng minh sự thiếu hụt và sụt giảm có liên quan đến một số tình trạng sức khỏe.
Các loại Vitamin hiệp đồng với vitamin D3
Điều quan trọng là phải bổ sung vitamin K2 MK-7 và magnesium cùng với bổ sung vitamin D3. Cả hai đều đóng một vai trò quan trọng đối với sức khỏe tổng quát của bạn và sinh khả dụng của vitamin D trong cơ thể của bạn. Nếu không sử dụng magnesium và vitamin K2, bạn có thể cần lượng vitamin D nhiều hơn gần 2.5 lần, theo một phát hiện được thực hiện bởi Grass juniorHealth trong dự án hành động D * của mình.
Trong dự án này, có hơn 10,000 cá nhân đã cung cấp thông tin về việc sử dụng thực phẩm bổ sung và tình trạng sức khỏe tổng thể cho Grass juniorHealth kể từ khi họ bắt đầu tiến hành nghiên cứu chất dinh dưỡng dựa trên dân số quy mô lớn vào năm 2007.
Thông tin đó đã dẫn đến khuyến nghị rằng nồng độ vitamin D trong máu từ 40ng/ml đến 60ng/ml (100nmol/L đến 150nmol/L là an toàn, hiệu quả và giảm tỷ lệ mắc bệnh nói chung và chi phí chăm sóc sức khỏe. Theo báo cáo của Grass Motorcycle từ dữ liệu của họ: “50% dân số cần bổ sung thêm 244% vitamin D để đạt được 40ng/ml (100nmol/L đối với những người không bổ sung magnesium hoặc vitamin K2 so với những người thường dùng cả magnesium bổ sung và vitamin K2. ”
Cách tối ưu hóa hàm lượng vitamin D của bạn
Bạn nên kiểm tra hàm lượng vitamin D của bạn và bắt đầu bổ sung nếu chỉ số này <40 ng/mL. Như bạn có thể thấy từ các nghiên cứu ở trên, mức vitamin D từ 60 ng/mL trở lên được khuyến nghị nếu bạn muốn bảo vệ khỏi ung thư.
Cuối cùng, hãy nhớ kiểm tra lại sau ba đến bốn tháng để đảm bảo bạn đã đạt được hàm lượng vitamin D mục tiêu của mình. Nếu bạn đạt , thì bạn biết bạn đang dùng đúng liều lượng. Nếu chỉ số này vẫn ở mức thấp hoặc >80 ng/mL, bạn sẽ cần điều chỉnh liều lượng vitamin D của mình cho phù hợp và kiểm tra lại sau ba đến bốn tháng nữa.
Về mặt thực tế, điều này có nghĩa là khi bạn bổ sung vitamin K2 và magnesium cùng với vitamin D, bạn cần ít hơn lượng vitamin D cho cơ thể.
Thiên Vân biên dịch
_____________________________________
No comments:
Post a Comment