Cho đến giờ, phương Tây vẫn hổ thẹn vì lịch sử buôn bán và lạm dụng nô lệ châu Phi. Từ thế kỷ XV - XIX, họ đẩy 12,8 triệu người da đen vào thảm cảnh sống không bằng chết khắp Âu - Mỹ.
Tuy nhiên trong khoảng thời gian này, 1,25 triệu người da trắng cũng bị hải tặc Bắc Phi bắt bán khắp Lục Địa Đen. Số phận của họ bất hạnh không kém các nô lệ da màu
Đối tượng mua nữ nô da trắng là giới quý tộc châu Phi và Trung Đông.
Bắt cóc cả làng
Vào lúc 2 giờ sáng 20/6/1631, Baltimore - ngôi làng ven biển của Ireland (quốc gia ở châu Âu), đang êm ả chìm trong giấc ngủ sâu thì bất ngờ bị đột kích.
Dưới bờ biển, trên 200 thuyền hải tặc Barbary âm thầm đậu san sát. Nhóm cướp biển ôm súng hỏa mai, gậy sắt và đuốc tràn lên. Chúng ngang nhiên phá cửa, xông vào các ngôi nhà.
Hải tặc Barbary là những tên cướp biển hoạt động trong khu vực bờ biển và ngoài khơi Bắc Phi. Địa bàn kiếm ăn chủ yếu của chúng là các cảng Salé, Rabat (Marocco), Algiers (Algeria), Tunis (Tunisia) và Tripoli (Libya). Tất cả các cảng này đều này nằm trên Bờ biển Barbary, nên các nhóm hải tặc ở đây được gọi chung là cướp biển Barbary.
Theo lịch sử Bắc Phi, hải tặc Barbary xuất hiện vào khoảng năm 710. Từ thế kỷ XIV trở về trước, chúng hoành hành ngoài khơi Barbary, tấn công, cướp bóc các thương thuyền.
Vào thế kỷ XV, châu Âu phát hiện ra châu Phi. Văn hóa Lục Địa Đen thời trung đại thịnh hành chế độ nô lệ. Nhiều cộng đồng ở đây trừng phạt thành viên mắc lỗi bằng cách tước đoạt tự do, nhân quyền. Những thương gia phương Tây tham lam lập tức nhìn thấy món hời lớn. Họ thu mua các nô lệ da màu, đưa lên thuyền chở về châu Âu, mở ra kỷ nguyên buôn bán nô lệ châu Phi.
Vốn dĩ, kỹ thuật đóng tàu thuyền đi biển của hải tặc Barbary rất lạc hậu. Vì thế, chúng chỉ có thể quanh quẩn bờ biển và ngoài khơi Barbary.
Châu Âu đã đem sự tân tiến đến, cải thiện hệ thống tàu thuyền cướp biển Bắc Phi. Bắt đầu từ thế kỷ XVI, hải tặc Barbary cũng dễ dàng chinh phục Đại Tây Dương, cập bến bờ biển Địa Trung Hải (châu Âu).Kết cục bất hạnh
Trên thực tế, cướp biển Barbary tấn công mọi nạn nhân trong tầm mắt. Chúng không từ người già hay trẻ em, da đen hay da trắng, tín đồ Kito giáo hay Hồi giáo...
Bản thân hải tặc Barbary cũng không chỉ có người da đen, mà hỗn hợp đa chủng tộc, đa quốc gia, đa tôn giáo. Chúng chỉ có một điểm chung là đặt căn cứ ở Barbary.
Mục tiêu của hải tặc Barbary là cướp bóc. Mỗi khi tấn công thuyền bè, hải cảng hoặc ngôi làng nào, chúng vơ vét sạch sẽ. Giữa kỷ nguyên buôn bán nô lệ, con người cũng là một loại hàng hóa. Cướp biển Barbary bắt tất cả những ai chúng có thể, đem lên bờ biển Barbary bán lấy tiền. Người ta gọi các nạn nhân của chúng là nô lệ Barbary.Người da trắng chỉ là một phần của nô lệ Barbary. Tuy nhiên, nô lệ Barbary vẫn được gọi là nô lệ da trắng, vì họ nổi bật trong thế giới người da đen.
Bên cạnh đó, tên gọi này còn tương ứng và thể hiện sự đối lập với nô lệ da đen trong thế giới người da trắng.
Các nạn nhân da trắng của hải tặc Barbary là thương gia, du khách (tới châu Phi bằng thuyền đi biển, cập bến Bắc Phi) và người dân sống trong các làng mạc, thị trấn ven biển Địa Trung Hải.
Vừa cập bến Barbary, họ bị lôi ngay lên bờ, lột sạch y phục, xích chân tay và đưa đến chợ nô lệ.
Tại chợ nô lệ, nam nô da trắng bị rao bán làm lao dịch. Số phận của họ là bị cưỡng bức lao động suốt đời. Thê thảm nhất là những ai bị biến thành “mái chèo sống”. Thuyền của hải tặc thời này chạy nhờ buồm (hứng gió) và chèo (dùng sức người). Các “mái chèo sống” bị xích luôn vào gầm thuyền, phải kéo đẩy các cây chèo cật lực, liên tục. Chưa hết, họ còn phải ăn, ngủ, vệ sinh luôn tại chỗ.Nữ nô lệ da trắng thì bị bán cho giới quý tộc châu Phi và Trung Đông làm hầu gái, vợ lẽ hoặc công cụ mua vui giải sầu. Các trẻ em cũng không được tha, bị xung vào “quân đoàn thiếu niên”, chịu muôn vàn huấn luyện quân sự khắc nghiệt để trở thành lính của Đế chế Ottoman (Trung Đông).
Hành trình 400 năm
Khi lượng du khách châu Âu đến châu Phi ngày càng thấp vì sợ cướp biển Barbary, nhóm hải tặc này điên cuồng tấn công các ngôi làng ven bờ Địa Trung Hải. Dải bờ biển dài từ Tây Ban Nha đến Ý bị đột kích triền miên. Chỉ riêng ở bán đảo Iberia (Tây Nam châu Âu), ước tính có từ 100.000 - 250.000 người da trắng bị chúng bắt cóc.
Thế kỷ XVII - XVIII, hải tặc Barbary lộng hành khắp các bờ biển châu Âu. Ước tính đến năm 1780, chúng đã bắt cóc và biến 1,25 triệu người da trắng thành nô lệ. So với cướp biển từ Bắc Phi, lực lượng hải quân châu Âu áp đảo cả về quân số lẫn vũ khí.Tuy nhiên khi thực chiến trên biển, họ lại thua nhiều hơn thắng. Cướp biển Barbary rất giỏi hải chiến và nhanh nhẹn. Chúng tấn công chớp nhoáng, rút lui cũng chớp nhoáng, khiến các hạm đội châu Âu bất lực.
Cuối thế kỷ XVII, các quốc gia châu Âu có chung bờ biển Địa Trung Hải phải hợp tác chống hải tặc Barbary. Họ bảo vệ gắt gao các thương thuyền, không cho cướp biển đến gần. Nhờ đó, hoạt động giao thương giữa Âu - Phi trở nên an toàn hơn.
Lượng người da đen bị buôn bán sang Âu - Mỹ cũng gia tăng chóng mặt. Trái lại, các làng mạc ven Địa Trung Hải vẫn bị bỏ bê, mặc cướp biển Barbary phá phách. Nhiều nơi ở châu Âu, dân biển phải bỏ làng chài, rút sâu vào đất liền lánh nạn.
Bước sang đầu thế kỷ XIX, hải quân châu Âu mới hợp tác với hải quân Mỹ, đánh đuổi hải tặc Barbary. Hàng loạt các băng nhóm cướp biển Bắc Phi bị xé lẻ, xóa sổ. Dù vậy, những kẻ sống sót vẫn tiếp tục cướp bóc và bắt bán người da trắng.
Phải đến khi chế độ nô lệ được xóa bỏ trên phạm vi toàn thế giới (1911), hoạt động buôn bán người này mới chấm dứt. Khắp châu Phi và Trung Đông, các nô lệ Barbary còn sống được giải phóng. Kỷ nguyên nô lệ da trắng kết thúc cùng lúc với thời đại nô lệ da đen.
No comments:
Post a Comment