BS Nguyễn Ý Đức
Các loại đường hóa học, còn gọi là đường nhân tạo hay chất làm ngọt nhân tạo (artificial sweetener), được tạo thành bằng phương pháp tổng hợp. Tất cả đều ngọt hơn đường trắng tinh chế tới vài trăm lần, lại có rất ít calorie, nên thường được dùng để tránh béo phì và thay thế đường trắng khi bệnh nhân tiểu đường muốn dùng chất ngọt.
Có ba loại đường hóa học thường dùng: cyclamates, saccharin và aspartame. Nhiều nghiên cứu cho biết đường tổng hợp có thể gây ra một số phản ứng bất lợi cho sức khỏe
Loại đường này bắt đầu xuất hiện từ đầu những năm 1950, đến năm 1969 thì bị cấm hẳn tại Hoa Kỳ vì nghi là có thể gây ung thư, khuyết tật ở trẻ sơ sinh và có tác dụng xấu vào bộ phận sinh sản của súc vật đực. Tại Canada, loại đường này vẫn được phép dùng trong một số mục đích hạn chế.
2- SaccharinSaccharin xuất hiện rất sớm, từ năm 1879 và được dùng phổ biến vào các thập niên 1950, 1960. Năm 1977, saccharin bị cấm hẳn ở Canada vì những kết quả nghiên cứu cho thấy chất này có thể gây ra ung thư bàng quang ở loài chuột.
Hoa Kỳ cho phép Saccharin lưu hành trên thị trường với điều kiện là phải kèm theo một nhãn cảnh báo người tiêu dùng về rủi ro của đường này.
Saccharin được biết tới qua tên thương mại Sweet’N Low, đựng trong túi giấy mầu hồng.
Trên thị trường, nhóm đường này được bán với tên là Nutrasweet hoặc Equal, đựng trong gói giấy màu xanh, và đã được quảng cáo như một chất ngọt tự nhiên, không nhân tạo như saccharin.
Aspartame được dùng rất nhiều trong nước ngọt có hơi, ngũ cốc chế biến khô, cà phê tan liền, món tráng miệng…
Người dùng nhiều aspartame thường hay than phiền chóng mặt, nhức đầu, mắt mờ, mau quên, kinh nguyệt không đều, tính tình thay đổi. Trẻ em thì quá năng động, hay gây gổ.
Một vấn đề đáng lưu ý là phụ nữ có thai dùng chất ngọt này thì chất phenylalamine có thể được chuyển sang thai nhi làm tổn thương não bộ.
Người dùng nhiều aspartame thường hay than phiền chóng mặt, nhức đầu, mắt mờ, mau quên, kinh nguyệt không đều, tính tình thay đổi. Trẻ em thì quá năng động, hay gây gổ.
Một vấn đề đáng lưu ý là phụ nữ có thai dùng chất ngọt này thì chất phenylalamine có thể được chuyển sang thai nhi làm tổn thương não bộ.
4- Acesulfame PotassiumHóa chất này ngọt hơn đường sucrose tới hai trăm lần và cũng có vị hơi đắng. Ðường bán với tên Sunette, Ace-K, Sweet One.
Ðường được nhiều người dùng trên khắp thế giới, trong nước uống, món ăn, kẹo cao su…
Ðường được nhiều người dùng trên khắp thế giới, trong nước uống, món ăn, kẹo cao su…
Ngày 1 tháng 4 năm 1998, Cơ quan Quản lý Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ (FDA) chính thức cho phép loại đường hóa học có tên là sucralose được lưu hành rộng rãi trên thị trường. Sucralose được niềm nở đón tiếp vì nó an toàn cho mọi giới, ngay cả phụ nữ có thai, nuôi con bằng sữa mẹ và an toàn cho cả trẻ em.
Sucralose là loại đường hóa học duy nhất được làm ra từ đường tự nhiên, nhưng có độ ngọt hơn đường tinh chế đến 600 lần. Mặc dù vậy, khi đưa vào cơ thể, loại đường này không cung cấp calorie và không bị biến hóa. Trên thị trường, đường này được bán với tên là Splenda.
6- Acesulfame K
Hóa chất này được làm ra ở Ðức và đã dùng rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới trước khi được dùng ở Hoa Kỳ với tên thương phẩm là Sunette. Ðường này có độ ngọt hơn đường trắng 200 lần và được dùng trong nước uống, kẹo cao su, làm bánh và cho thêm vào thực phẩm trước khi nấu nướng.
Ngoài ra, còn có các đường hóa học khác như Poyols, Alitame, Neotame, Stevia, Beflora, Cyclamate, Stevioside, Thaumatin, Dihydrochalones, Glycyrhizin, L-Sugars…
Ngoài ra, còn có các đường hóa học khác như Poyols, Alitame, Neotame, Stevia, Beflora, Cyclamate, Stevioside, Thaumatin, Dihydrochalones, Glycyrhizin, L-Sugars…
NYD
____________________________________
No comments:
Post a Comment