Cụ Nguyễn Văn Tuyết
(Cụ đã từ trần ở Paris, hưởng thọ 91 tuổi)
(hình: Internet) |
Paris ngày
14 tháng 10 năm 2010
Bà nó à!
À mà thôi, gọi là EM đi cho tình tứ như ngày xưa
chúng mình cùng chung giường chung gối, chung cả đường đi lẫn lối về em nhá. Dù
rằng nay đôi ta mỗi người một ngả, lại đông con nhiều cháu mà còn xưng hô “anh
em” thì e rằng con cháu nó cười. Nhưng đây là tình thư của anh gửi tới em, lá
thư đầu tiên và cũng là lá thư cuối cùng. Anh viết thư này từ ngày 14/10/20xx,
mỗi ngày vài dòng, khổ nỗi mỗi khi viết đến tên em là như có hơi nước che mờ
cặp kính nên anh đành phải buông bút, dụi mắt thở dài! Viết lâu rồi đấy mà chưa
nói được gì với em! Chuyện tình trong 60 năm dễ gì nói trong vài trang giấy, kể
trong vài ngày.
Thôi thì thế này nhá, nếu không xong để gửi qua
đường bưu điện thì anh sẽ mang đến nơi em đang ở để trao tận tay. Anh biết nơi
em ở rồi, kể từ khi em dọn về bên ấy, anh đã rất nhiều lần đi vòng quanh bên
ngoài để ngắm một căn nhà 2 tầng (*) nhỏ-nhắn, xinh-xắn, mà nghe đâu em khoe
với hàng xóm rằng:
– Tôi ở tầng dưới, còn tầng trên
để dành cho nhà tôi…
* * *
Em à!
Nhớ lại ngày nào em là thiếu nữ 16 tuổi xinh tươi
làng Vạn, hoa khôi huyện Yên Phong, còn anh là trai làng Đại Lâm, chúng mình
cùng tỉnh Bắc Ninh, nhưng anh theo gia đình ra Hà Nội học nên không có dịp “thả
thơ”
Em còn nhớ những vụ “thả thơ” này không? Dì Phách,
cô em gái của em nói rằng em đẹp lắm lại là con nhà có của nên trai huyện trai
làng nhiều người ngấp nghé, mỗi khi em đi chợ thì họ len lén bỏ thư vào cái làn
mây em xách tay, khi về nhà mới biết, thế là mấy chị em đọc thư tỏ tình của các
chàng nhát gái mà cười bò ra, nghe cũng vui đấy nhỉ! Nhưng anh thì chưa có dịp
thả thơ như thế.
Khi bố anh cần người giúp ông trong việc kinh doanh
nên đã bắt anh lập gia đình sớm, Anh có quen biết nhiều cô gái ở Hà Nội nhưng
không thương ai. Thế rồi một hôm bố anh bảo diện vào rồi đi chợ huyện Yên Phong
với ông, anh hỏi bố rằng con đi chợ làm gì thì bố nói:
– Trai khôn tìm vợ chợ đông, gái
khôn tìm chồng giữa chốn ba quân.
Khi đến chợ rồi mới biết ngày đó em cũng đi chợ, có
lẽ người lớn đã sắp xếp cho chúng mình trông thấy nhau. Nghĩ lại cũng buồn cười
nhỉ! Bây giờ
khác xưa rồi, trai gái quen biết và yêu rồi mới dẫn cha mẹ hai bên gặp nhau.
“Anh trông thấy em đi chợ anh
thương”. Bố chưa
kịp hỏi ý kiến anh có bằng lòng “cô ấy” hay không thì anh vội nói trước:
– Chưa gặp đã bén hơi. Tại duyên
số rồi bố ơi!
Thế là bố khuyên anh “cưới vợ thì cưới liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha” nên anh
vội nhờ người đem tặng em “một thúng xôi
vò, một con lợn béo một vò rượu tăm. Tặng em đôi gối em nằm, cái chăn em đắp…”.
Năm đó chúng mình vừa tròn 17.
Họ hàng nhà trai khen em xinh gái và có duyên, nhưng
bố anh thì nói: “Vợ chồng cùng tuổi nằm
duỗi mà ăn”. Và, để cho con đừng có ỷ lại nằm duỗi mà ăn nên ông cụ đã giao
cho vợ chồng mình xưởng sửa chữa và cho thuê xe xích-lô.
Khởi đầu là thế, mình sống đầm ấm bên nhau, không
vất vả về kinh tế nên năm 1941 em sinh con gái đầu lòng, anh đặt tên con là
Trinh. Rồi lần lượt có thêm con Thục, con Thuý, cả ba xinh gái giống mẹ. Sau 3
cô con gái là em sinh liền cho anh 4 cậu con trai, tên các con là Phong, Tuấn,
Quang, Anh. Đời sống gia đình đang thanh bình ấm êm, các con đi học có xích lô
đưa đón thì bỗng “trời đất nổi cơn gió
bụi”, em má hồng chịu nỗi chuân chuyên, bụng mang dạ chửa mà phải cùng gia
đình di cư vào Nam. Vừa đến Hải Phòng thì em sinh con gái thứ tư nên mình đặt
tên con là Nguyễn Thị Hải, và Hải là đứa con thứ tám cùng theo bố mẹ di cư 1954
vào vùng đất lạ.
Cưới năm 1939 tới 1954 khi di cư mới được có 8 con
nên em nói còn ít. Nhớ hôm dẫn em vào bảo sanh viện, anh nắm tay em an ủi thì
em mỉm cười nói:
– Anh còn phải đưa em vào bảo sanh
viện tám lần nữa, vì thầy tướng số nói em sẽ có 16 người con tất cả.
Nghe em nói xong anh cười to khiến mấy bà bầu ngồi ở
phòng chờ đợi quay sang nhìn vợ chồng mình, chắc họ tưởng mình vui vì mới có
con đầu lòng. Nghĩ vậy nên anh ghé vào tai em thì thầm:
– Bao nhiêu cũng được, chỉ sợ vất
vả cho em thôi, còn anh thì… lo tất.
* * *
Vào tới Saigon, gia đình mình ở số nhà 247 đường
Thành Thái, Chợ Lớn, gần ngả tư Trần Bình Trọng. Em vẫn tề gia nội trợ, còn anh,
xoay đủ nghề. Từ mở trường dạy lái xe hơi lúc mới vào rồi làm tôm đông lạnh ở
Rạch Giá, lập trại trồng nấm rơm ở suối Lồ Ồ Dĩ An, thầu xây dựng với anhThúc,
làm cho USOM; và như em
biết đấy, công việc cuối cùng của anh là làm việc ở tòa Lãnh Sự Pháp Saigon,
nhờ đó mà sau 30/4/1975 gia đình ta đi định cư tại Paris.
Tuy nhiên anh đã không giúp em được toại nguyện theo
như lời khuyên của thầy tướng số nên trong thời gian ở Saigon, vợ chồng mình
chỉ thêm được có 4 “cậu” là Tiến, Thắng, Thụy, Xương và 2 “cô” Loan, Hà; vị chi là 14 mụn con gồm 6 gái, 8
trai, còn thiếu 2 vì thế em mới nuôi thêm 2 cháu ngoại là Yến và Việt, con của
Thúy để cho đủ 16 đứa.
Nay tuy không được vuông tròn trọn vẹn nhưng tất cả
đã ổn định cả rồi. Hiện tại ở Mỹ có 3 cô 2 cậu, ở Pháp có 4 cậu, 3 cô. Con nào
cũng có gia đình hạnh phúc một vợ một chồng và đã tặng cho em rất đông cháu nội
ngoại và đã hơn 10 chắt rồi đó. Duy chỉ còn cô út Thu Hà, đẹp, thông minh hoạt
bát, nhiều chàng ngấp nghé lắm nhưng con gái út của chúng mình lơ là chuyện này
mà lại siêng năng nghiên cứu kinh sách nhà Phật. Tại duyên số thôi.
Anh rất hài lòng vì các con, trai gái thì hiếu thảo
con dâu nào cũng coi như con đẻ, nhất là Yến, vợ Quang, hiện là chị dâu trưởng,
là gương mẫu cho các em. Còn con rể ư? Các cụ xưa gọi con rể là tế-tử nên anh
thấy tế-tử nào cũng tử tế cả, các anh ấy là người biết điều, lo toan mọi bề cho
vợ con, lại hiền lành. Duy chỉ có chồng của Thúy, tức bố của Yến-Việt là quân
nhân nên vất vả và luôn phải xa gia đình, nghèo và hơi ngang. Em nhớ không, lần
đầu tiên hắn đến nhà mình thăm con Thúy mà lại ngồi gác chân mang giầy nhà binh
lên bàn! Anh giận quá! Nhưng bù lại, nay mỗi lần anh sang Mỹ thăm con cháu, thì
bố Việt chở anh ra khu chợ ABC mua bánh ngọt, đi ăn hủ tíu Mỹ Tho, lại còn bảo
vợ chồng Việt “niềng” răng cho ông ngoại, anh thấy vui vui nên nói:
– Khỏi niềng, răng của ông còn rất
tốt và đẹp nữa, con chỉ cần bỏ vào ly nước ngâm với thuốc sát trùng cho ông là
được
rồi.
Anh nói tới đâu rồi nhỉ? Thế đấy, còn minh mẫn nhưng
hơi lộn xộn nên thư viết cho em cứ chuyện nọ xọ sang chuyện kia. À nhớ ra rồi,
tới chỗ vuông tròn.
Anh nói không được vuông tròn trọn vẹn là vì con gái
đầu lòng đã ra đi khi vừa tới Mỹ, và hai con trai hy sinh cho Tổ Quốc, cậu cả
Phong bị thương ở Ban-Mê-Thuột rồi hy sinh, cậu Tuấn thì tử trận trên biển,
chìm theo hộ tống hạm HQ10 trong trận hải chiến để bảo vệ Hoàng Sa chống lại
quân xâm lược Trung Cộng vào ngày 19 tháng 1 năm 1974.
Em à, anh không muốn nhắc chuyện xưa làm đau lòng em
khi mất đi 2 đứa con trai tuổi còn quá trẻ, nhưng cũng là một đóng góp cho đất
nước như biết bao các gia đình khác. Mới đây ông HQ Đặng Thanh Long đã thay mặt
Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng, Tổng Hội Hải Quân Hải Ngoại đem cuốn Hải Sử Tuyển
Tập và Hải Sử HQVNCH đến tặng gia đình ta với bút tích ghi ở trang đầu như sau:
“Kính biếu gia đình tử sĩ Hoàng Sa HQ Nguyễn Văn Tuấn”.
* * *
Thấm thoát thời gian mau thế đấy em nhỉ, chả cần nói
nhiều thì các con cũng biết từ lúc có đứa con đầu lòng ở Hà Nội rồi có thêm cô
Út Hà ở Saigon rồi gia đình ta di tản, bảo lãnh, vượt biển vượt biên mà được
thế này cũng là tạ ơn trời đất lắm rồi. Nhưng bất hạnh thay, em lại bỏ anh mà
đi! Dễ chừng gần chục năm rồi chứ ít sao? Lúc trước anh nhớ chính xác ngày giờ
năm tháng em ra đi, nhưng sau lần anh bị té dập đầu thì trí nhớ không còn tốt.
Thôi để anh mở sổ ra xem ngày nào em bỏ anh ra đi. Đây rồi, ngày 14 tháng 10
năm 2002, và anh viết lá thư này cho em cũng vào ngày 14 tháng 10, em đi đã
được 8 năm rồi đó.
Em à! Anh nhớ rõ là em bị bệnh thận, đang lọc máu
thì bị té dập xương chậu và sau một thời gian ngắn thì em ra đi! Ngày đó mắt
anh đã khô, khi thấy con cháu vây quanh mẹ, quanh bà nức nở khóc làm anh nghẹn
cổ họng.
Thôi thế cũng xong, vì hiện nay em luôn được mạnh
khỏe, không còn lo lắng về bệnh tật, cuộc sống mới lại bình an, thảnh thơi mãi
mãi. Nhưng cẩn thận nhá, mỗi lần “vân du” em nhớ mang theo áo ấm và gài dây an
toàn kẻo gió mạnh lại thổi bay mất thôi.
Em nhớ không? Lúc sinh thời mỗi lần mang thuốc và
nước đến cho em thì anh chỉ nói vắn tắt: “Thuốc đây, bà uống đi!”. Nay anh muốn gọi tiếng EM, nói
thật nhiều lời thương yêu thì giọng anh đã khò khè, thở không ra hơi! Hối hận
quá!
Khi em đi rồi mà đàn chim bồ câu cứ đúng giờ nó lại
bay về đậu trên thành cửa sổ, cái của sổ của căn phòng trên tầng thứ 15 của tòa
biu-dinh thuộc thị xã Alfort Ville, ngó ngay ra bờ sông Seine, từng đôi chim gù gù sát cánh bên nhau chờ những
miếng bánh mì mà em bẻ vụn ra rồi rắc cho chúng ăn.
Ngày đó anh cằn nhằn em hoài vì cái việc cho chim
ăn, nó ăn rồi ị, sương mù và mưa phùn làm bánh mì thừa ướt nhão nhẹt ra rồi mốc
xanh lên khiến anh lại phải dọn. Bực mình anh la thì em nhỏ nhẹ nói: “Tội nghiệp chúng nó”. Thôi đành cứ để em cho chim ăn
rồi anh dọn phân và thức ăn thừa kẻo gió lùa vào phòng mình hôi cứt chim. Khi
em về trên đó rồi, mình anh ở lại mỗi ngày phải nhìn từng đôi chim gù gù tỉa
cánh cho nhau mà nhớ em vô vàn. Đó là lý do thầm kín anh không muốn rời căn
phòng này để về ở với con cháu.
* * *
Có những chiều Hè hoàng hôn nắng úa, đứng ngắm hình
em treo trên tường, anh thì thầm: “Sao em không nói với anh?”, rồi ngó qua cửa sổ anh bỗng thấy
như có mưa phùn chiều Đông, thì ra mắt anh mờ và anh cảm thấy lạnh lẽo!
Tất cả đồ dùng của em còn để nguyên chỗ cũ, nhìn đâu
cũng thấy em, vì thế
các con xin dọn cho gọn gàng thì anh không cho. Bẩy cô cậu thay nhau thuyết
phục bố về ở với các con nhưng anh nhất định không muốn rời xa nơi này, tuy
không còn là tổ ấm nhưng còn cái ghế em ngồi, còn cửa sổ mà em đứng rắc bánh mì
cho chim ăn. Anh không thổ lộ những điều thầm kín đó mà chỉ nói:
– Bố còn khỏe, tự lo cho mình được
mà, các con cứ yên tâm.
Mà anh còn khỏe thực, mỗi sáng không còn lái xe ra
Paris 13 để ăn hủ tíu và mua báo Văn Nghệ Tiền Phong nữa thì anh đi bộ quanh
phòng, đi dăm ba bước anh dừng lại nghỉ dăm phút, cứ như thế mỗi giờ cũng đi
được hơn một vòng. Anh cũng vẫn ăn được, mỗi ngày cô Hải mang cơm nóng canh sốt
sang cho bố rồi dọn dẹp nhà của. Hải về thì cô út Hà sang lo mọi việc giấy tờ về sức
khỏe của bố. Cậu cả Quang tuy ít nói nhưng phân công đâu ra đó cho các em trai
Thắng, Thụy, Xương luân phiên trực đêm bên bố
và chở bố đi Paris 13, khu phố Việt, phố Tàu.
Tuy sống độc thân nhưng anh không cô độc, mỗi thứ
Bẩy và Chúa Nhật là con trai gái dâu rể, cháu nội ngoại kéo nhau về tụ họp
trong căn phòng nhỏ này. Khi trước còn khỏe thì anh nấu một nồi phở thật to,
nay thì mỗi con mang theo một thứ, căn phòng không chỉ ấm cúng mà còn nóng lên
nữa ấy chứ. Những lúc đó thì anh lại nghĩ đến em, để cho con cháu vui chơi, anh
lẳng lặng đi nằm, ứa nước mắt vì sung sướng nghe tiếng cười của con cháu nhưng
cũng ứa nước mắt khi thiếu tiếng em! Thì ra “Con nuôi cha không bằng bà nuôi ông, ông nuôi bà”.
Cách nay khá lâu, anh đang vịn tường để đi vào phòng
tắm thì bị té, các con vội đưa đi cấp cứu, bệnh viện khám phá ra một mạch máu
trong đầu bị nghẽn khiến anh té chứ không phải tại anh vô ý.
Nhớ mãi hôm ấy thấy em đến thăm anh trong bệnh viện,
anh vội vàng ngồi dậy, ba chân bốn cẳng chạy ra đón em và anh bị vấp té, choàng
mở mắt thì biết anh vừa nằm mơ và giận quá tại sao mình không cẩn thận để bị té
rồi tỉnh lại mà không được nắm tay em. Vừa lúc đó anh nghe cô ý tá nói:
– Từ nay cụ phải dùng cái này.
Ngó xem thì ra là cái gậy chống, ở cuối có 4 chân
bịt cao su. Nếu anh chống gậy này mà đi thăm em thì đúng là “ba chân bốn cẳng rồi!”. Anh không
thích chống gậy, trông giống ông cụ quá! Đối với anh, em vẫn còn khỏe và còn
trẻ, người cõi tiên thì “trẻ mãi không già” mà.
Nằm bệnh viện được mấy ngày thì anh đòi về nhà, nhớ
căn phòng quá; nhưng các
con không cho, lựa khi các con không có mặt, anh “ba chân bốn cẳng” vào phòng bác sĩ trực năn nỉ xin xuất viện và họ
“đắc-co”.
Về nhà được mấy ngày thì anh lại “ba chân bốn cẳng” mang hoa đến tặng em,
nhưng gõ của hoài mà không nghe tiếng ai trả lời, hình như mấy cô tiên đưa em
vân du trên cẩu Vồng hay du Nguyệt Điện thì phải. Rõ chán! Cả đời ở bên nhau,
anh chưa bao giờ tặng em một cánh hoa, tại anh thấy em là hoa đẹp rồi. Anh mong
sớm có ngày được đoàn tụ cùng em nắm tay nhau tung mây lướt gió.
Sống với nhau hơn 60 năm, “sáu mươi năm cuộc đời” được 14 mặt con mà mình chưa bao giờ “to
tiếng” với nhau, cằn nhằn thì có, nhưng chưa một lần em phải buồn phiền vì anh
uống rượu, hút thuốc, đánh bạc và lăng nhăng, vì anh không thích những thứ đó,
vì anh đã có em. Tính đến nay xa em đã 8 năm, thời gian cũng quá đủ suy
ngẫm về thói đời hay coi thường hạnh phúc đang có sẵn trong tay mà không biết
vun quén. Anh đang mong ngày tái ngộ.
“Cầu được ước thấy”, mới tuần
trước đây anh đang đứng vịn tường tập thể dục thì tự động ngã, bệnh viện cho
biết những mạch máu li ti trên đầu bị vỡ, các con bao quanh lo lắng và bác sĩ
họ đang cố gắng nối lại, nhưng anh nói “Thôi!”.
Sống với con cháu như vậy là quá đủ rồi, lo cho các
con như vậy cũng tạm ổn, nhìn lên không bằng ai nhưng nhìn xuống thì không ai
bằng. Tuy các con không giầu có gì, nhưng đủ ăn và hạnh phúc, nhất là các con
một vợ một chồng, như đũa có đôi và anh chị em thương yêu nhau. Anh nói với các
con: “Các con như đũa có đôi, để ba về
với mợ chứ, căn phòng trên lầu nơi mợ ở dành cho ba đã có sẵn tiện nghi rồi,
các con đừng lo lắng và bịn rịn nữa. Chúc các con ở lại bình an, đùm bọc và
thương yêu nhau như từ trước tới nay”.
Em à! Hôm nay là ngày 14 tháng 9 năm 2010, chỉ còn
đúng một tháng nữa là trùng vào ngày em đi, 14/10, bác sĩ cũng vừa báo cho biết
họ sẽ “búc” (book: đặt mua) vé cho anh. Như vậy là mọi việc đã sẵn sàng tốt
đẹp, anh không mang theo gì cả. Khi nào có vé thì anh sẽ gọi phôn cho em biết
để mở cửa cho anh vào. Nếu em nghe không rõ tiếng người mà chỉ thoáng phì phò
tiếng gió thì biết đó là lúc anh đã cất cánh.
Hẹn gặp em một ngày rất gần.
Vĩnh biệt các con và các cháu cùng các chắt.
Nguyễn Văn Tuyết
---------------------------------------------------------------------------------
(*) Mộ 2
tầng, ai đi trước nằm tầng dưới, ai đi sau nằm tầng trên.
No comments:
Post a Comment