Bùi Bảo
Trúc
Tôi thích cà phê ngay từ khi chưa
được uống một giọt cà phê nào. Ở nhà, "cụ giáo" của tôi rất nghiêm
khắc không cho con cái đụng tới nó, hình như vì một bài viết trong tờ Sélection
cho là cà phê có hại. Vì thế, cà phê không được tiến vào qua cái ngưỡng cửa nhà
chúng tôi. Nhưng hồi học năm đầu của trung học, mỗi lần đi học về qua một cửa
tiệm trên đường Nhân Vị, Chợ Lớn (bên kia là Cơ Thể Học Viện), tôi đều ngừng
lại xem một ông già người Hoa rang cà phê trước cửa nhà ông để hít lấy cái mùi
kỳ diệu của những hạt cà phê nâu đen trong cái chảo trên cái bếp than của ông.
Thế rồi chuyện phải đến (?) đã đến :
tôi uống lén được ly cà phê đầu tiên cùng với một điếu Bastos xanh hôm đi tập
thể dục với một người bạn học lớp Đệ Lục (năm thứ hai trung học Đệ Nhất Cấp),
bạn tôi người tài không đợi tuổi, đã mỗi ngày hút 2 điếu Mélia vàng.
Người Sài Gòn oai hơn người Hà Nội.
Ở Hà Nội hồi trước di cư, phải sang lắm mới biết uống cà phê. Nhưng ở Sài Gòn,
gần như ai ai cũng uống cà phê. Ông xích lô, ông lái taxi, ông thư ký, mấy ông
già, đàn ông, đàn bà đủ mọi hạng tuổi đều uống cà phê.
Có một cách uống cà phê mà chỉ ở Sài
Gòn mới có, đó là uống ngồi kiểu nước lụt, tức là ngồi chồm hổm, cà phê được đổ
ra cái đĩa và... húp xì xụp. Cảnh uống cà phê như thế trông không quí phái lắm
nhưng cách uống đó rất có lý : buổi sáng trời lạnh, ngồi co ro như vậy cho ấm.
Ly cà phê nóng đổ ra đĩa sẽ nguội đi, dễ uống hơn.
Mãi đến năm học thi Tú Tài 1 thì
chuyện uống cà phê (lén) của tôi mới là chuyện thường xuyên. Mỗi ly cà phê bít
tất hồi ấy có 2 đồng bạc. Gần như hôm nào tôi cũng đến một quán cà phê trên
đường Hai Bà Trưng gần nhà thờ Tân Định để uống cà phê với Đinh Ngọc Mô (người
phụ trách chương trình Đố Vui Để Học của Trung Tâm Học Liệu Bộ Quốc Gia Giáo
Dục sau này) và cũng để ngắm cô hàng cà phê tên là Y. (ngó em hổng dám ngó lâu
/ ngó qua một chút đỡ rầu rồi thôi).
Cà phê trở thành một phần của đời
sống của tôi từ đó. Sau trung học, tôi đi học xa khỏi Việt Nam và cà phê càng
không rời tôi mặc dù cà phê ở ngoài Việt Nam không thể nào ngon bằng cà phê
phin Việt Nam, thua xa những ly cà phê đầu đường xó chợ mà tôi uống ở Sài Gòn
hồi học trung học.
Sau mấy năm, về lại Sài Gòn, tôi lại
trở về với cà phê Sài Gòn nhưng chuyện cà phê của tôi có đổi khác. Không còn là
học sinh... nghèo nữa. Chúng tôi thay đổi phần nào nơi uống cà phê. Chỗ chúng
tôi hay ngồi là quán Cái Chùa, tên thật là La Pagode ở góc đường Tự Do và Lê
Thánh Tôn. Đó là chỗ để ngồi đấu hót thì đúng hơn, để gặp bạn, đủ các thứ bạn,
còn cà phê thì nói cho ngay, không đáng kể lắm nếu không nói là dở. Chúng tôi
đến đó là vì những lý do khác. Cũng như thế, cà phê ở Givral, Brodard và
Continental... đều không có gì đáng nói. Những nơi như thế chỉ để ngồi chứ
không vì cà phê.
Chính những tiệm cà phê không tên
tuổi, không bảng hiệu lại là những nơi có cà phê ngon nhất. Hai nơi chúng tôi
hay tới đều ở trong hai con đường nhỏ, một ở khu Bàn Cờ và một ở Tân Định. Ở
trong con hẻm từ đường Cao Thắng rẽ vào, là căn nhà nhỏ của gia đình cụ Phong
mà chúng tôi vẫn gọi là cà phê Phong. Tiệm không có bàn, chỉ có mấy cái ghế
thấp, khách khứa bao giờ cũng chỉ năm, sáu người. Cà phê phin của cụ rất ngon.
Chủ tiệm bao giờ cũng ngồi trên
chiếc ghế xích đu. Khi có khách gọi cà phê thì ông cụ gọi vọng vào nhà trong,
và cũng chẳng buồn đứng dậy. Ông cụ ngồi xích đu nghe lỏm đủ các thứ chuyện của
khách, thỉnh thoảng góp vài câu với khách thường bằng câu "Cậu không bằng tôi...", bất kể khách nói gì, làm gì.
Thỉnh thoảng có một người khách rất đặc biệt ghé vào, trong cả những buổi tối
mưa ướt lướt thướt, gọi một ly cà phê đen không đường, không sữa ngồi uống một
mình, uống xong lại lặng lẽ ra về trong mưa, hệt như bài Déjeuner du Matin của
Jacques Prévert:
...Il s'est levé
Il a mis
Son chapeau sur sa tête
Il a mis son manteau de pluie
Parce qu'il pleuvait
Et il est parti
Sous la pluie
Sans une parole
Sans me regarder...
Il a mis
Son chapeau sur sa tête
Il a mis son manteau de pluie
Parce qu'il pleuvait
Et il est parti
Sous la pluie
Sans une parole
Sans me regarder...
Đó là ông Đinh Hùng. Tôi chưa kịp
làm quen để chào ông một câu thì ông qua đời. Năm ấy là năm 1967.
Tiệm cà phê kia nằm trên đường Lý
Văn Phức từ đường Hiền Vương rẽ vào. Chủ nhà là một phụ nữ khoảng ngoài bốn
mươi. Tiệm cũng không bàn ghế như những tiệm cà phê khác. Cũng chỉ vài cái ghế
đẩu thấp. Chủ nhà rất tiết kiệm lời nói nhưng bù lại cà phê rất ngon. Chắc chắn
còn nhiều người nhớ tên của bà: cà phê Thái Chi.
Trong khi có người uống cà phê với
rất nhiều đường, thì cũng có người không uống với đường, vì vị ngọt (quá đáng)
có thể làm mất đi mùi cà phê.
Tôi uống đủ các thứ cà phê từ cà phê
bít tất đến cà phê bột, cà phê dở và nhạt như nước mắt ma của 7-Eleven đến cà
phê Ả Rập, cà phê Espresso của Ý, của Pháp, cà phê Áo, cà phê kiểu Thổ Nhĩ
Kỳ... và cà phê Starbucks...
Nhưng cho tới khi đọc một tùy bút
của Võ Phiến tôi mới học được cách gọi cà phê ít sữa hay cà phê nhiều sữa một
cách giản dị và dễ dàng, lại không thể lầm lẫn. Chú phổ ky ở cái tiệm mì nhỏ có
cách gọi rất vắn tắt : "Một cà phê
sữa, một sữa cà phê" là có ngay hai ly cà phê đúng ý của hai ông khách
khó tính từ Sài Gòn xuống miền Tây công tác.
Cạnh tiệm phở Tầu Bay trên đường Lý
Thái Tổ có một ông cụ bán cà phê bên một gốc cây to. Cà phê đá của cụ rất ngon
tôi thường ghé trong những sáng chủ nhật trước khi lên ngồi cà phê Cái Chùa.
Bây giờ những ngày không đi làm tôi tự
pha cà phê lấy ở nhà bằng những cái ấm cà phê tôi góp nhặt suốt nhiều năm qua.
Cái của Ý, cái của Đức, Áo... thỉnh thoảng thay đổi cho đỡ chán. Nhưng hệt như
người ta không bao giờ quên hẳn mối tình đầu, những ly cà phê thời tuổi trẻ vẫn
trở lại hoài hoài. Tôi vẫn yêu những ly cà phê uống với những người bạn trung
học. Tưởng tượng làm sao có cách nào trở lại với những ly cà phê rẻ tiền mà
ngon đến thế.
Nhưng giấc mơ trở lại với những ly
cà phê ấy chắc không bao giờ làm được nữa. Tuần qua một bài báo ở Sài Gòn viết
về cà phê ở trong nước hiện nay, theo đó cà phê mà người dân Sài Gòn uống hiện
nay được làm bằng 30% cà phê, còn 70% là đậu đỏ, đậu xanh pha cùng với một hai
thứ hóa chất có nhiều phần độc hại khác cho khách.
Nhớ những ly cà phê ở mấy cái quán
bình dân thời ấy biết là bao nhiêu nhưng nay làm thế nào còn tìm thấy được. Có phải
lúc ấy đời sống hiền lành và giản dị hơn bây giờ như một câu trong bài Memories của
Barbra Streisand không? : "... can it be that it was all so simple
then...".
Bùi Bảo
Trúc
______________________________________________________________
No comments:
Post a Comment