kim thanh
Tặng tất cả những ai
không còn mẹ
Portland, 4 tháng 3, 2016
Sáng ba mươi Tết năm nay, Trường bỗng dưng
lù lù xuất hiện tại cửa nhà tôi. Một cách bất ngờ, không báo trước –do một đệ
tam nhân cho địa chỉ, nhưng không biết số điện thoại của tôi. “Để thăm và chúc
Tết bạn”, Trường cười nói. Lần đầu tiên, sau ba mươi mốt năm. Tôi quen Trường, một
cách sơ giao, từ khi mới đặt chân đến Mỹ, năm 1985. Thỉnh thoảng gặp nhau tại
nhà thờ, cũng chào hỏi, à ới vài câu cho đúng thủ tục của người “có văn hóa”, nhưng
trong thâm tâm không bên nào muốn bước thêm bước nữa để trở thành bạn, đúng nghĩa.
Bởi anh rất đạo đức, đạo mạo, cẩn trọng, mặc dù suýt soát bằng tuổi, ngược hẳn
với tôi tính tình bộc trực, bất cần đời, thấy chướng tai gai mắt là đốp chát liền.
Thấy tôi đâu, anh không quên mời gia nhập hội này hội nọ trong giáo xứ, lại còn
nhắc năng xưng tội, rước lễ –điều mà tôi
luôn hứa, cho qua chuyện, nhưng không bao giờ làm. Riết rồi anh chán, và tôi cũng
tìm cách trốn anh.
Trường sống một mình, không vợ con, kiểu tu
tại gia. Nghe nói anh đã được phong vài chức thánh nhỏ, mà tôi cũng chẳng hỏi anh
tại sao không thừa thắng xông lên đi làm thầy sáu hay linh mục, cho ấm thân. Công
việc chính, âm thầm, mà anh tự đặt, là đi thăm viếng những đồng hương bị bệnh đang
nằm điều trị ở nhà thương, hoặc tại gia, để an ủi, nâng đỡ tinh thần, đọc kinh
cầu nguyện, có khi đem Mình Thánh Chúa đến cho họ v.v…
Ngoài ra, Trường còn tình nguyện đi thăm các
ông bà già trong những nhà dưỡng lão. Đó cũng là mục đích chính đã khiến Trường
đến tôi bất ngờ sáng nay. “Tiện đường, rủ bạn cùng đi cho vui ấy mà”, anh nói. Tôi
hỏi vặn: “Bộ hết người để rủ đi hay sao mà ông cứ nhắm tôi hoài vậy cà?” Anh cười,
không trả lời. Mặc dù lu bu bởi trăm thứ việc không tên, tôi cũng thấy mềm lòng
và mặc cảm tội lỗi với anh. Bèn OK.
1. Nhà dưỡng lão tư mà Trường
chở tôi đến cũng ở cùng khu với nhà tôi. Một căn nhà diện tích trung bình, sạch
sẽ, thoáng mát, có một vườn nhỏ đầy hoa muôn sắc, xen lẫn với rau thơm đủ loại
mà chủ nhân trồng thêm, cho những bữa ăn thuần túy Việt Nam. Bên trong cải
biến thành một gian rộng, chia ra sáu phòng nhỏ vừa đủ cho sáu giường nằm. Có bếp
và phòng vệ sinh chung. Bình thường, tổng số “cư dân” –toàn là trên bảy, tám bó–
là sáu, hôm nay chỉ còn ba, vì các cụ lần lượt từ giã cõi trần, hoặc con cái muốn
“đổi nhà dưỡng lão, với nhiều lý do riêng”, bà chủ nhà nói.
Hôm ấy, Trường muốn thăm gặp, đặc biệt, một
cụ ông 98 tuổi, Công giáo, không thân nhân. Vì vậy, chúng tôi vào thẳng phòng cụ
trước, với sự hướng dẫn của bà chủ và một chị chăm sóc viên (caretaker), tên Sang,
chuyên giúp các cụ ăn uống, làm vệ sinh, tắm gội, thay tã, dắt đi bộ ngoài vườn
v.v… Thấy có khách, cụ ông đang nằm cố gắng
ngồi dậy, mặc dù Trường giơ tay ngăn cản. Trông cụ còn tráng kiện so với số tuổi,
nói năng hoạt bát, nhưng đã lẫn, quên hết chuyện mới, ví dụ, vừa được Sang cho ăn
đó, mà cụ lại không nhớ, kêu đói. Khiến chị phải cải chính, chỉ chỉ vào bụng của
cụ. Trái lại, những chuyện cũ năm xửa năm xưa, cụ nhớ rất kỹ, và kể ra vanh vách,
tuy không mạch lạc. Đặc biệt, nhớ cả bài thơ tình tám câu mà cụ nói cụ làm để tán
tỉnh cô hàng xóm, thuở còn trẻ, “dễ thương ơi là dễ thương” (lời cụ), rồi cụ hứng
chí đọc đi đọc lại bài thơ, lần nào cũng sai vài chữ, vài câu, rồi cười khanh
khách, sảng khoái. Cười xong, cụ bỗng rơm rớm nước mắt, như trong lòng mang nặng
tâm sự, và nằm vật ra giường. Trong lúc đó, bà chủ và chị Sang, vì bận việc, đã
kín đáo bỏ đi, để mặc khách chuyện trò với cụ.
Rời cụ ông 98 tuổi, chúng tôi thăm viếng
xã giao, ngoài chương trình, hai “cư dân” còn lại, gồm một nam, một nữ. Cụ ông
này, 85 tuổi, yếu lắm, bỏ ăn, một tuần trước đó, than khó thở, được xe cấp cứu chở
đi bệnh viện nằm một ngày, và đưa về lại. Chủ nhà báo tin cho mấy đứa con cụ,
nhưng ai cũng trả lời không thể ghé thăm, nại cớ bận đi làm. Nằm bất động trên
giường, cụ chỉ lắng nghe, mà không nói, mà có nói cũng thều thào, không thành
tiếng. Nửa tháng sau, tình cờ gặp lại Sang, tôi hỏi thăm về cụ, và nghe chị kể:
“Mấy hôm sau khi hai anh gặp cụ thì cụ qua đời, lúc bấy giờ con cái mới tới, gọi
nhà quàn cho xe đến chở xác cụ đi thiêu”.
2. Rồi chúng tôi vào phòng
cụ bà duy nhất. Cụ đã 86 tuổi, trông rất yếu. những còn tỉnh táo, minh mẫn, không
lẫn chút nào. Gương mặt nhăn nheo phảng phất một nét đẹp thanh tú của ngày xưa
còn sót lại. Sang nói, cụ được con cái thỉnh thoảng đến thăm.
Lúc chúng tôi bước vào, cụ đang ngồi trên
xe lăn, kế bên là Sang, tay cầm muỗng cơm, khom người dụ dỗ, thiếu điều năn nỉ,
cụ mở miệng, để đút cho cụ ăn. Nhưng cụ lắc đầu, nhất quyết tuyệt thực. Chúng tôi
nghe lời đối đáp giữa hai người:
- Cụ ăn vài miếng giùm con đi. Đã hai ngày
rồi, mà cụ không có gì trong ruột…
Cụ òa
khóc, nức nở:
- Tôi nhớ con, nhớ cháu lắm, cô cho tôi về
thăm nhà ba ngày Tết đi, rồi tôi trở lại, tôi hứa mà, giúp tôi đi, cô ơi. Con tôi
không tới đón tôi về, thì tôi nhất định ngậm miệng…
Mủi lòng, tôi tiến đến bên, cúi xuống, choàng
vai cụ, vỗ nhẹ lưng, và lấy giấy Kleenex lau nước mắt cho cụ, trong khi Sang nói
tiếp:
- Cụ ăn đi, rồi chốc nữa, mấy anh mấy chị
sẽ đến đón cụ về…
Cụ ngừng khóc, vẻ mặt u buồn đổi sang một
chút hớn hở, nhưng còn thút thít, hoặc nấc lên, tức tưởi, như trẻ thơ, và hỏi lại:
- Thật nhé?
- Dạ thật.
Lúc đó, cụ mới hả miệng, chịu ăn hết chén
cơm, có rau, thịt, và uống hết một ly nước cam vắt. Xong xuôi, như thường lệ, Sang
bế cụ lên giường, để cụ nghỉ trưa.
Ra khỏi phòng, chị khẽ kể cho hai chúng tôi rằng, theo
lời yêu cầu của cụ, bà chủ đã gọi các con cháu, khá đông, đến rước cụ về thăm
nhà trong dịp Tết, nhưng ai cũng trả lời là bận đi làm, không thể đưa cụ về được.
Chị nói: “Khi nãy, em phải nói như thế để cho cụ chịu ăn, chứ thật tình em biết
qua bà chủ là họ sẽ không đến. Hóa ra mình nói dối với cụ”. Tôi trả lời: “Chị đừng áy náy. Lúc còn chiến
tranh, tại Phan Thiết, tôi cũng đã một lần nói dối với bà mẹ của một người lính
ở đơn vị vừa chết trận. Gặp bà mẹ anh đang bị bệnh nặng nằm thoi thóp trên giường,
hỏi thăm con, tôi không nỡ, và không thể, nói thật… Trong trường hợp này, chị
đã phản ứng không khác chi tôi.”
Trường đứng im, lắc đầu, không nói gì.
Còn tôi, tự dưng, thấy tái tê, đau đớn, như có trăm nghìn mũi kim vô hình đâm xuyên
trái tim. Chợt nghe vọng về bên tai những câu hát quen thuộc, bất hủ, tưởng đã chôn
vùi trong ký ức từ lâu:
“Mẹ
mẹ là dòng suối dịu hiền. Mẹ mẹ là bài hát
thần tiên. Là bóng mát trên cao. Là mắt sáng trăng sao. Là ánh đuốc trong đêm
khi lạc lối. Mẹ mẹ là lọn mía ngọt ngào. Mẹ mẹ là nải chuối buồng cau. Là tiếng
dế đêm thâu”… (Phạm Thế Mỹ).
Hay “Lòng
Mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào / Tình Mẹ tha thiết như giòng suối hiền ngọt
ngào / Lời Mẹ êm ái như đồng lúa chiều rì rào / Tiếng ru bên thềm trăng tà soi
bóng Mẹ yêu”… (Y Vân).
Hay “Maman,
Maman jolie (Mẹ ơi, Mẹ xinh đẹp ơi) / Maman
tu es la plus belle du monde (Mẹ, mẹ đẹp nhất trần đời) / Aucune autre à la ronde n'est plus jolie (Không
ai chung quanh đẹp hơn)”… (Dalida).
3. Và tôi bỗng thấy nhớ Mẹ
dấu yêu của tôi quay quắt –đã ra đi, về với Tuổi, từ bao thu rồi. Thầm ước mong,
và tưởng tượng, một ngày nào Mẹ thức dậy từ giấc ngủ ngàn năm, và cũng bảo tôi đưa
về thăm nhà, vì nhớ con, nhớ cháu. Để Mẹ ôm chặt các con, các cháu vào lòng, không
rời, trong vòng tay trìu mến. Để cho tôi khóc cạn nước mắt, trên vai gầy của Mẹ,
trên trọn cuộc đời này. Khóc cho mẹ tôi, giờ đây vẫn nằm dưới mộ sâu, vô vàn cách
trở. Khóc cho tất cả những người mẹ thân xác còn đó mà một nửa hồn đã chết, như
hoa tàn rụng, trong nỗi tuyệt vọng vô bờ và chờ đợi mỏi mòn.
Trong nỗi cô đơn tột cùng. Trong nỗi cô
đơn hóa thân. Qua hình hài của một bà cụ 86
tuổi tội nghiệp, một bà mẹ đáng thương đã bỏ ăn, bỏ uống, vì không được con cái
đón về nhà để vui Xuân cùng với gia đình. Một bà mẹ bất hạnh, khổ đau, không
quen biết –mà tôi đã không hẹn đến để thăm gặp, để lau hộ những dòng lệ héo hắt
tuôn rơi, vào sáng ngày ba mươi Tết, năm nay, tại một nhà dưỡng lão Portland.
_____________________________________________________________
No comments:
Post a Comment