Đoàn Xuân Thu
Mới
đầu nghe ba em gọi, tôi tưởng tên em là Muỗi. Tôi ghẹo em: “Muỗi này! Đừng
chích anh, đau lắm”. Em trề môi, vẻ
không bằng lòng: “Tên em là Muội. Muội
là em. Em là Muội”. À ra thế!
Ba
Muội, chú Phu, người Quảng Đông. Phu là
phú, phú là giàu. Tên chú giàu nhưng chú không giàu. Chú chỉ có chiếc xe hủ tiếu, bán điểm tâm dưới
hai tàng me đại thụ, trên vỉa hè, bên hông rạp chớp bóng Định Tường. Má tôi đông con, cũng nghèo, có quầy bán cơm
tấm gần bên. Chủ nhựt được nghỉ học, hai
đứa ra phụ chạy bàn. Em giúp ba em. Tôi
giúp má tôi.
Năm
ấy tôi mười tám tuổi, học Đệ nhứt, năm cuối cùng của bậc Trung học Đệ nhị cấp.
Cuối năm, tôi sẽ thi Tú tài hai. Đậu thì lên Đại học. Rớt thì vào Thủ Đức.
Chiến trường đang hồi ác liệt. Bạn tôi, rớt Tú tài một, đi Đồng Đế, có đi mà
chẳng có về. Muội, mười sáu tuổi, học Đệ
tam, trường Tàu, sắp thi bằng Cao Trung.
Muội
là cô giáo dạy tôi tiếng Quảng Đông. Dách là một, dì là hai, xám là ba, xập là
mười. Bài xập xám là bài mười ba lá. Muội nói Muội không thích thanh niên đánh
bài. Tôi đâu có ở không để đi đánh bài; vì tôi còn bận tơ tưởng đến Muội của
tôi suốt ngày; ngay cả năm thi Tú tài hai, bài vở còn cả đống, tôi còn không để
mắt tới nữa là.
Muôi
dạy tôi tính tiền là xấu lúi. Kỷ tố là
bao nhiêu. Dách cô phảnh là một tô hủ
tiếu. Tôi hỏi: “Một dĩa cơm tấm bì,
tiếng Quảng nói làm sao?” Muội nói: “Muội không biết”. Tôi nói: “Đi hỏi ba Muội
đi!”. Muội không dám. Muội sợ ba biết Muội quen với tôi, ba Muội
rầy.
Ba Muội nói: “Con trai Việt Nam làm biếng lắm, đi chơi tối ngày, không lo buôn bán. Không buôn bán lấy gì ăn. Không có gì ăn, làm sao lấy vợ. Nếu lấy được vợ làm sao nuôi vợ, nuôi con”.
Ba Muội nói: “Con trai Việt Nam làm biếng lắm, đi chơi tối ngày, không lo buôn bán. Không buôn bán lấy gì ăn. Không có gì ăn, làm sao lấy vợ. Nếu lấy được vợ làm sao nuôi vợ, nuôi con”.
Tôi
nói: “Muội đừng lo. Tôi sẽ rán học, thi đậu Tú tài hai, vào Đại học Sư phạm,
được hoãn dịch, đi bán chữ, để có tiền nuôi Muội. Muội đi bán hủ tiếu, để tôi có hủ tiếu, ăn trừ
cơm, trong những ngày mưa bán ế”.
Muội
nói: “Muội còn nhỏ lắm, chưa biết yêu”. Tôi nói: “Tôi sẽ chờ vài năm nữa”.
Nhưng thời cuộc biến chuyển. Tôi không chờ được Muội mà ngược lại Muội phải chờ tôi. Chờ tôi suốt cả một thời con gái
Nhưng thời cuộc biến chuyển. Tôi không chờ được Muội mà ngược lại Muội phải chờ tôi. Chờ tôi suốt cả một thời con gái
Cuối
năm đó tôi đậu Tú tài hai. Hai năm xa Mỹ Tho, đi học Đại học Cần Thơ, tôi không
còn dịp gặp Muội mỗi sáng chủ nhựt, để nói chuyện tào lao bắc đế nữa. Tôi sắp
ra trường, sẽ đổi về một quận lỵ buồn thỉu, buồn thiu nào đó của đồng bằng sông
Cửu Long; để làm một ông giáo làng, hai mươi mốt tuổi. Tôi sẽ trở về Mỹ Tho nhờ má tôi nói với chú
Phu, ba Muội, hỏi cưới Muội cho tôi. Bây
giờ tôi đã có đủ chữ để đi bán rồi. Tôi
sẽ có tiền nuôi Muội, để ba Muội không còn chê con trai Việt Nam làm biếng nữa.
Tôi sẽ không còn ăn cơm tấm má nấu. Tôi
sẽ ăn hủ tiếu Muội nấu, trừ cơm, trong những ngày mưa bán ế. Tôi không ao ước cao xa gì hết. Chuyện ấy
dành cho con nhà giàu, quyền thế. Tôi
chỉ ước được làm thầy giáo làng, có vợ bán hủ tiếu. Vậy mà cũng không được!
Mùa
hè năm 72: mùa hè lửa đỏ. Các trận đánh lớn đồng loạt nổ ra ở Quảng Trị, Kon
Tum, An Lộc. Tin chiến sự chiếm đầy mặt báo. Trang sau là cáo phó, phân ưu
những người lính tử trận. Tôi tốt nghiệp, nhưng không được nhận nhiệm sở. Lệnh
tổng động viên đã ban hành. Tôi vào trường Bộ Binh Thủ Đức.
Tôi
thư về Muội bảo chờ tôi. Tôi còn quá trẻ để chết. Tôi sẽ trở về! Tôi sẽ trở về!
Tôi vẫn còn muốn ăn hủ tiếu Muội nấu, trừ cơm, trong những ngày mưa bán ế. Hai năm xa Mỹ Tho, tôi đã ăn hủ tiếu nhiều
nơi, nhiều chỗ nhưng không nơi nào, chỗ nào nấu hủ tiếu ngon bằng Muội của tôi. Muội hứa sẽ chờ tôi về dẫu trời sập chăng đi
nữa. Lời hứa ấy làm ấm lòng tôi suốt
những ngày gian khổ giày sô, áo trận.
Tôi
rời trường Bộ Binh Thủ Đức, về Thủy quân Lục chiến. Sư đoàn là lực lượng tổng trừ bị, nên tôi lội
khắp nơi: từ Cà Mau, Chương Thiện, Bến Tre ra tận Thừa Thiên, Quảng Trị. Một năm lính trôi qua, khi tiểu đoàn về Mỏ
Cày, Bến Tre truy kích chủ lực miền của địch về quấy rối thì tôi đạp phải mìn. Sức nổ của trái mìn tự tạo bằng quả đạn pháo
105 lép, đẩy tôi văng tuốt xuống mương, mình dính đầy những miểng. Tôi không chết, như đã hứa với Muội. Trực
thăng phầm phập tải thương về Bịnh viện 3 Dã chiến Mỹ Tho. Tôi nằm trên băng
ca, ngoài hành lang trên lầu, chờ ngày mai xe hồng thập tự chuyển tôi về bịnh
viện Lê Hữu Sanh của sư đoàn ở Thị Nghè. Muội nghe tin tôi bị thương; tất tả cùng má
đến thăm. Đã hết giờ thăm thương bịnh
binh, má với Muội đứng dưới lề đường Trương Định nhìn lên nơi tôi nằm. Tôi thò
cái tay, không bị dính miểng, vẫy vẫy. Má
khóc. Muội cũng khóc. Vạt áo xẩm, Muội
mặc, đẫm đầy nước mắt. Muội sợ tôi chết,
Muội khóc. Khóc cho giấc mộng tôi muốn làm thầy giáo đi bán chữ nuôi Muội; Muội
đi bán hủ tiếu cho tôi ăn trừ cơm những ngày mưa bán ế đã không thành.
Tôi
nằm bịnh viện cả tháng trời. Miểng trong người lâu lâu lại lòi ra. Tôi nghiến
răng, rút miểng ra, máu lại chảy. Tôi được hai tuần phép để chờ ra hội đồng
giám định y khoa. Tôi trở về Mỹ Tho gặp
má. Cởi giầy sô, áo trận, tôi mặc lại chiếc áo học trò năm cũ. Tôi ra vỉa hè,
dưới hai tàng me đại thụ, bên hông rạp chớp bóng Định Tường, chạy bàn cho má
tôi. Tôi gặp lại Muội. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhứt đời tôi,
khi bây giờ, tôi nhớ lại.
Tôi
hỏi Muội: “Đẹp tiếng Quảng là gì?”. Muội nói: “Hụ len. Còn yêu là ói”. Vậy thì
“Nị hụ len; ngọ ói nị”. Muội mắc cỡ, ửng hồng đôi má.
Cả tháng trời nằm bịnh viện, không có dịp xài, lương vẫn y nguyên. Tôi lãnh tiền ra, đưa cho má tôi một nửa. Má tôi không cầm tiền, má khóc.
Tôi nài nỉ: “Em con đang sức lớn, má ơi!”
Cả tháng trời nằm bịnh viện, không có dịp xài, lương vẫn y nguyên. Tôi lãnh tiền ra, đưa cho má tôi một nửa. Má tôi không cầm tiền, má khóc.
Tôi nài nỉ: “Em con đang sức lớn, má ơi!”
Số
tiền còn lại tôi dắt Muội xuống tiệm Văn Minh, gần rạp hát Vĩnh Lợi, mua vải
cho Muội may áo. Tôi chọn một xấp gấm Thượng Hải có in chữ Tàu.
Tôi hỏi: “Chữ Tàu đó nghĩa là gì?”
Muội nói: “Đó là chữ hỉ. Hỉ là vui. Vải này dành cho người ta may áo cưới”.
Tôi hỏi: “Muội muốn màu gì?”
“Màu đỏ hên lắm! Muội xin Trời, Phật cho anh đi đánh giặc bình an, hết giặc, về với Muội”.
Tôi nói: “Thôi! Đời anh xui quá xá rồi còn gì, muốn đi bán chữ mà cũng không được, mới đi lính có một năm đã bị thương rồi, hên đâu hỏng thấy”.
Tôi chọn cho Muội vải áo màu xanh đọt chuối.
Tôi bảo: “Màu xanh là màu hy vọng. Anh hy vọng Muội sẽ chờ anh dù cho trời sập tới nơi.” Muội nói: “Muội sẽ chờ.”
Tôi hỏi: “Chữ Tàu đó nghĩa là gì?”
Muội nói: “Đó là chữ hỉ. Hỉ là vui. Vải này dành cho người ta may áo cưới”.
Tôi hỏi: “Muội muốn màu gì?”
“Màu đỏ hên lắm! Muội xin Trời, Phật cho anh đi đánh giặc bình an, hết giặc, về với Muội”.
Tôi nói: “Thôi! Đời anh xui quá xá rồi còn gì, muốn đi bán chữ mà cũng không được, mới đi lính có một năm đã bị thương rồi, hên đâu hỏng thấy”.
Tôi chọn cho Muội vải áo màu xanh đọt chuối.
Tôi bảo: “Màu xanh là màu hy vọng. Anh hy vọng Muội sẽ chờ anh dù cho trời sập tới nơi.” Muội nói: “Muội sẽ chờ.”
Tôi
may cho Muội một chiếc áo bà ba để bắt đền cho chiếc áo xẩm đẫm đầy nước mắt
khi đến thăm tôi bị thương nằm ở Bệnh viện 3 Dã chiến ngày nào.
Muội nói: “Muội mặc chiếc áo bà ba giống hệt con gái Mỹ Tho.”
“Ba má sanh Muội ra ở đây thì Muội đã là con gái Mỹ Tho rồi; mà con gái Mỹ Tho chánh cống chưa chắc đã dám đọ với em”. Tôi nịnh Muội.
Hai tuần phép trôi nhanh, tôi ra hội đồng giám định y khoa tái khám, bị phân loại một, trở về tác chiến. Lại băng rừng, vượt suối, bạc màu áo trận, mốc thích giầy sô cho đến ngày tan hàng, sập tiệm.
Muội nói: “Muội mặc chiếc áo bà ba giống hệt con gái Mỹ Tho.”
“Ba má sanh Muội ra ở đây thì Muội đã là con gái Mỹ Tho rồi; mà con gái Mỹ Tho chánh cống chưa chắc đã dám đọ với em”. Tôi nịnh Muội.
Hai tuần phép trôi nhanh, tôi ra hội đồng giám định y khoa tái khám, bị phân loại một, trở về tác chiến. Lại băng rừng, vượt suối, bạc màu áo trận, mốc thích giầy sô cho đến ngày tan hàng, sập tiệm.
Tôi
chỉ là một sĩ quan cấp thấp, nhưng lại thuộc binh chủng rằn ri nên những người
thắng trận cải tạo tôi hơi lâu; mãi năm năm sau mới thả tôi về. Tôi trở về Mỹ Tho bèo nhèo như một chiếc áo
rách. Má tôi đã mất khi tôi còn ở trong trại. Mấy đứa em giấu tôi tin buồn. Đứng trước bàn
thờ má, đốt một nén nhang, tôi không còn khóc được nữa, nước mắt tôi đã cạn lâu
rồi. Miệng tôi méo xệch như mếu, mắt
chớp chớp, mặt nhăn nhúm, giựt giựt.
Má
ơi!
Tôi nhớ lại nồi cơm tấm má nấu, nồi cơm tấm nuôi tôi ăn học. Tôi nhớ cái vỉa hè, bên hông rạp chớp bóng Định Tường, dưới hai tàng me đại thụ mà mùa thu lá me bay bay, rơi đầy trên tóc. Tôi nhớ những giọt nước mắt của má tôi, khi đến thăm tôi bị thương nằm ở Bịnh viện 3 Dã chiến năm nào. Tôi nhớ những giọt nước mắt của má tôi khi không chịu cầm số tiền lương tôi gởi. Bây giờ má tôi đã mất rồi; đàn em tôi vẫn còn nheo nhóc. Cả nhà đói, ăn độn bo bo mà cũng không đủ. Ăn buổi sáng, phải chạy, lo buổi chiều. Việc chạy gạo dồn lên cả đôi vai khẳng khiu của em gái tôi đang tuổi thanh xuân. Nhưng tuổi thanh xuân của em tôi còn đâu nữa. Nước mất nhà tan! Chưa bao giờ tôi thấm thía câu nói ấy cho bằng bây giờ.
Tôi nhớ lại nồi cơm tấm má nấu, nồi cơm tấm nuôi tôi ăn học. Tôi nhớ cái vỉa hè, bên hông rạp chớp bóng Định Tường, dưới hai tàng me đại thụ mà mùa thu lá me bay bay, rơi đầy trên tóc. Tôi nhớ những giọt nước mắt của má tôi, khi đến thăm tôi bị thương nằm ở Bịnh viện 3 Dã chiến năm nào. Tôi nhớ những giọt nước mắt của má tôi khi không chịu cầm số tiền lương tôi gởi. Bây giờ má tôi đã mất rồi; đàn em tôi vẫn còn nheo nhóc. Cả nhà đói, ăn độn bo bo mà cũng không đủ. Ăn buổi sáng, phải chạy, lo buổi chiều. Việc chạy gạo dồn lên cả đôi vai khẳng khiu của em gái tôi đang tuổi thanh xuân. Nhưng tuổi thanh xuân của em tôi còn đâu nữa. Nước mất nhà tan! Chưa bao giờ tôi thấm thía câu nói ấy cho bằng bây giờ.
Tôi
không tìm gặp lại Muội nữa. Tình thơ dại của tôi đã tan theo vận nước. Bây giờ
tôi chỉ là một sĩ quan ngụy, đi cải tạo về, mỗi tuần phải trình diện công an
phường một lần cho tới ngày xả chế. Tôi ra khỏi một nhà tù nhỏ, để vào một nhà
tù lớn hơn! Tôi chỉ có chữ, mà chữ bây giờ chẳng ai mua. Chế độ này không cần
chữ. Lúc tôi lên trình diện, lão phó công an phường lẩm nhẩm đánh vần lịnh tha
của tôi mà nước miếng tràn ra cả khóe miệng. Chế độ này cần lý lịch. Mà lý lịch
tôi hạng 15, nghĩa là hạng bét, tận cùng đáy xã hội, thì tôi làm được gì bây
giờ?
Tôi
không tìm gặp lại Muội không phải vì tôi mặc cảm. Tôi không có gì phải mặc cảm
cả. Tôi chỉ đi lính, đánh giặc, tôi thua, giặc bắt tôi ở tù. Thế thôi!
Tôi
không tìm gặp lại Muội chỉ vì tôi không muốn mình trở thành gánh nặng cho Muội.
Yêu người, có ai muốn trở thành gánh nặng cho người mình yêu bao giờ đâu? Tôi
cũng không muốn trở thành gánh nặng cho em tôi. Thương em, có ai muốn trở thành
gánh nặng cho em mình thương bao giờ đâu?
Tôi
đã sống sót suốt năm năm trời dưới chín tầng địa ngục. Tôi đã đói, đói đến mức
phải ăn bất cứ cái gì động đậy: cóc, nhái, ễnh ương, bù tọt. Tôi phải sống sót
để trở về, như đã hứa, với Muội. Kẻ thù muốn tôi quỳ xuống, van xin. Tôi không
quỳ xuống, van xin. Kẻ thù muốn tôi chết. Tôi không chết. Tôi đã trở về, dù
thân tàn ma dại.
Em
gái tôi đem chiếc nhẫn cưới của má để lại, đến vợ tên công an khu vực cầm, để
tôi có chút vốn đi buôn lậu dầu dừa. Ngày xưa nói đến buôn lậu là nói đến tiền
tỉ, đến những vật phẩm đắt tiền, trốn thuế, chuyển hàng có xe quân cảnh hụ còi
như vụ Long An. Còn bây giờ chỉ mười lít
dầu dừa, bỏ vào cặp táp, từ cầu Ba Lai qua phà Rạch Miễu về Mỹ Tho, kiếm lời đủ
mua lít gạo. Đế quốc Mỹ, tàu to, súng
lớn, không đủ sức đưa nhân dân ta trở về thời kỳ đồ đá. Nhà nước ta, đỉnh cao
trí tuệ loài người, bằng ngăn sông, cấm chợ, rào đường, chặn ngõ dễ dàng đưa
nhân dân ta trở lại thời kỳ đồ đá, thời kỳ hái, lượm, thời kỳ của nền kinh tế
tự cung, tự cấp; bởi buôn bán, dù năm mười lít gạo, mười, hai chục lít dầu dừa
là không lao động, không sản xuất, là bóc lột, là chủ nghĩa tư bản xấu xa.
Tôi
cắt tóc ngắn lên, cho gọn gàng, cho có vẻ thầy giáo. Phần thì để né mấy tay du
kích bên Cầu Bắc Tân Thạch, quê hương Đồng Khởi. Mấy tay du kích VC này có kiểu
làm tiền rất láu cá, bằng cách làm nhục khách bộ hành qua phà, dùng súng, chận
họ lại, bắt vào hớt tóc. Tóc dài là tàn dư Mỹ Ngụy. Ngồi trước gương của ông
thợ hớt tóc đầu đường, thấy tóc mình đã điểm vài sợi bạc, dù tôi chưa đầy ba
mươi tuổi. Tôi mặc lại chiếc áo sơ mi trắng năm học đệ nhứt, đã ố vàng. Chiếc
quần xanh được nhuộm đen. Mặc áo bỏ vô quần, mang giày với đôi vớ rách. Tôi
xách chiếc cặp táp cũ nhưng không để đựng sách vở. Sách vở ích gì cho buổi ấy.
Chiếc cặp đựng cái can nhựa mười lít dầu dừa. Tôi nhập vai thầy giáo, dù ước mơ
làm thầy giáo làng, có vợ bán hủ tiếu để tôi ăn trừ cơm những ngày mưa bán ế, đã
chết tự lâu rồi, từ Mỹ Tho qua Bến Tre dạy học, canh giờ đến lớp hay tan học,
hòa vào đám học trò để vượt qua trạm Cầu Bắc.
Tôi
đi buôn lậu dầu dừa được chừng sáu tháng thì thằng bạn học cũ thời trung học
cũng ở tù về, rủ tôi hùn tiền mua chiếc xích lô đạp. Nó chạy sáng, tôi chạy
chiều hoặc ngược lại. Thằng bạn tôi nói, cay đắng: “Thằng Mỹ quýnh quáng bỏ
chạy, còn làm rớt lại cái tên Mỹ, Xô xích Le, xe xích lô”. Tôi thì lại nói:
“Mấy ông tai to, mặt lớn của tụi mình thì hô hào tử thủ, để có thời giờ tom góp
vàng bạc, đô la rồi dông, còn làm rớt lại chức dân biểu. Xô xích Le, dân biểu.
Dân biểu đâu, mình chạy đó”
Một
buổi chiều sau khi chở khách ra bến xe cổng thị xã, tôi thả xe không về chợ
Vòng Nhỏ thì thấy một ông cắc chú đội chiếc nón mây đan, rộng vành, như Khương
Đại Vệ trong phim kiếm hiệp tàu trước 75. Ông mặc chiếc quần tiều lỡ, quá gối,
chiếc áo thung tay dài gần tới cùi chỏ, bỏ vô quần, gánh hai cái cần xé không,
đi lủi thủi. Tướng đi ngờ ngợ, quen quen. Chú Phu rồi chứ chẳng ai!
“Đi
xích lô hông? Chú ba!” Chú Phu nhìn lên, ngơ ngác, ngờ ngợ một lát, rồi nhận ra
tôi. Tôi đã đổi thay nhiều quá.
“Chèn ơi! Vậy mà ngộ tưởng nị chết rồi.”
“Chết sao được! Sống nhăn răng ra đây nè.”
Tôi chở chú Phu về nhà. Cũng căn nhà lợp ngói âm dương ở đường Huyện Toại, nhưng có vẻ tiêu điều, u ám. Chiếc xe hủ tiếu xập kỷ nìn, năm xưa, ngày cũ, còn đậu trước hàng ba, xẹp bánh, bụi bám, nhện giăng.
“Nị ở chơi, ngộ nấu hủ tiếu cho nị ăn. Lâu quá ngộ cũng không có ăn hủ tiếu.”
“Vậy chứ chú thôi bán hủ tiếu rồi sao?”
“Thôi lâu rồi! Giờ ai cũng mạt, tiền đâu ăn hủ tiếu.”
“Thì bán cho mấy ổng.”
“Ổng nào? À mấy ông cách mạng hả? Ờ mấy ổng đâu có thèm ăn hủ tiếu. Mấy ổng ăn vàng không hà.”
“Chèn ơi! Vậy mà ngộ tưởng nị chết rồi.”
“Chết sao được! Sống nhăn răng ra đây nè.”
Tôi chở chú Phu về nhà. Cũng căn nhà lợp ngói âm dương ở đường Huyện Toại, nhưng có vẻ tiêu điều, u ám. Chiếc xe hủ tiếu xập kỷ nìn, năm xưa, ngày cũ, còn đậu trước hàng ba, xẹp bánh, bụi bám, nhện giăng.
“Nị ở chơi, ngộ nấu hủ tiếu cho nị ăn. Lâu quá ngộ cũng không có ăn hủ tiếu.”
“Vậy chứ chú thôi bán hủ tiếu rồi sao?”
“Thôi lâu rồi! Giờ ai cũng mạt, tiền đâu ăn hủ tiếu.”
“Thì bán cho mấy ổng.”
“Ổng nào? À mấy ông cách mạng hả? Ờ mấy ổng đâu có thèm ăn hủ tiếu. Mấy ổng ăn vàng không hà.”
Chú
Phu đem ra một tô hủ tiếu và một lít rượu. Tô hủ tiếu, chú Phu vừa mới nấu,
cũng chịu cùng số phận tang thương theo vận nước, chỉ nước lèo, bánh và lèo tèo
những lát thịt mỏng như tờ giấy quyến. Tôi
nhớ tô hủ tiếu Muội nấu cho tôi ăn trong những ngày mưa bán ế. Tô hủ tiếu với bánh bột lọc làm bằng gạo Gò
Cát, trụng với nước thật sôi, dai mà không bở như hủ tiếu Sài Gòn, nước lèo nấu
bằng xương heo, tôm khô, khô mực, cải bắc thảo, thêm vài tép mỡ, điểm xuyến vài
cọng sà lách non xanh với mấy cọng hành luộc, một nhúm giá, vài lát ớt sừng
trâu xắt mỏng, rắc chút tiêu, ăn với xì dầu và dấm đỏ. Tô hủ tiếu, người thương mình nấu, ly cà phê
sữa nhỏ, xây phé nại, do chính tay mình pha, trong những ngày bão rớt, mưa dầm,
bán ế giờ đã trở thành kỷ niệm. Tôi
không tiện hỏi thăm về Muội, dù rất muốn.
Tôi hỏi: “Chú bây giờ làm gì để sống?”
“Thì nị thấy đó, ngộ đi mua ve chai, lông vịt về bỏ cho vựa. Nghề ve chai lông vịt mà, nghề móc bọc, móc bọc ny lon đem xuống sông rửa, rồi cân ký. Bây giờ khổ quá! Nhớ hồi xưa mình vui quá!”
Lít rượu ngâm ô môi, cho có màu, chú, cháu cưa hai gần hết.
Chú Phu, chưn nam đá chưn chiêu, lảo đảo bước vào nhà trong, lấy ra cái bọc ny lon.
Chú nói: “Con Muội! Nó gởi cho nị. Con Muội! hu hu! Nó chết rồi!”
“Muội ơi!”
“Ngộ biết nó thương nị. Lúc nị đi ở tù, nó nói nó chờ nị được tha về, nó sẽ đi bán hủ tiếu nuôi nị. Nhưng có được đâu! Tụi nó đánh ăn tụi mình rồi lại giành ăn, đánh lẫn nhau. Thiệt hết biết! Hết Pol Pot, Bành Trướng Bắc Kinh, rồi Nạn Kiều. Ngộ sợ tụi nó sẽ đuổi cha con ngộ về Trung Quốc. Tưởng thống chế bỏ ngộ chạy ra Taiwan. Mao xếnh xáng rượt ngộ chạy tuốt đến đây. Mỹ Tho đất lành chim đậu. Rồi sanh ra con Muội.
Tôi hỏi: “Chú bây giờ làm gì để sống?”
“Thì nị thấy đó, ngộ đi mua ve chai, lông vịt về bỏ cho vựa. Nghề ve chai lông vịt mà, nghề móc bọc, móc bọc ny lon đem xuống sông rửa, rồi cân ký. Bây giờ khổ quá! Nhớ hồi xưa mình vui quá!”
Lít rượu ngâm ô môi, cho có màu, chú, cháu cưa hai gần hết.
Chú Phu, chưn nam đá chưn chiêu, lảo đảo bước vào nhà trong, lấy ra cái bọc ny lon.
Chú nói: “Con Muội! Nó gởi cho nị. Con Muội! hu hu! Nó chết rồi!”
“Muội ơi!”
“Ngộ biết nó thương nị. Lúc nị đi ở tù, nó nói nó chờ nị được tha về, nó sẽ đi bán hủ tiếu nuôi nị. Nhưng có được đâu! Tụi nó đánh ăn tụi mình rồi lại giành ăn, đánh lẫn nhau. Thiệt hết biết! Hết Pol Pot, Bành Trướng Bắc Kinh, rồi Nạn Kiều. Ngộ sợ tụi nó sẽ đuổi cha con ngộ về Trung Quốc. Tưởng thống chế bỏ ngộ chạy ra Taiwan. Mao xếnh xáng rượt ngộ chạy tuốt đến đây. Mỹ Tho đất lành chim đậu. Rồi sanh ra con Muội.
Ngộ
nói với con Muội: “Mỹ Tho bây giờ đất dữ rồi, thôi bay đi con!” Muội ngần ngừ, có ý đợi nị về. Ngộ nói: “Nị
làm quan, mà lại rằn ri nữa, tù biết đến lúc nào ra? Nếu không đi; sợ không còn
có dịp. Cái cột đèn còn muốn đi nữa mà.”
“Suốt
cuộc đời bán hủ tiếu, ky cỏm được hai cây vàng, ngộ xuống năn nỉ mấy xì thẩu
dưới chợ Mỹ Tho cho con Muội một chổ.”
“Tàu nó ra cửa được ba ngày đêm thì bơm nhớt bị hư, máy lột dên, trôi giạt. Ở hải phận quốc tế, tàu buôn qua lại nườm nượp mà không ai vớt. Ba tuần linh đinh trên biển, tuyệt vọng quá, mấy người đi trên tàu gom quần áo, giày dép lại, đốt. Cuối cùng có chiếc tàu buôn tội nghiệp dừng lại, thả thang dây xuống. Ba tuần trên biển, nị nghĩ coi, sức đâu nữa mà leo. Nó sút tay, rớt xuống biển. Chết chìm. Hu hu.”
“Tàu nó ra cửa được ba ngày đêm thì bơm nhớt bị hư, máy lột dên, trôi giạt. Ở hải phận quốc tế, tàu buôn qua lại nườm nượp mà không ai vớt. Ba tuần linh đinh trên biển, tuyệt vọng quá, mấy người đi trên tàu gom quần áo, giày dép lại, đốt. Cuối cùng có chiếc tàu buôn tội nghiệp dừng lại, thả thang dây xuống. Ba tuần trên biển, nị nghĩ coi, sức đâu nữa mà leo. Nó sút tay, rớt xuống biển. Chết chìm. Hu hu.”
Chú
Phu không còn nước mắt nữa để khóc, chú chỉ kêu hu hu, tiếng kêu của con thú bị
một vết thương trí mạng, bị ví vào đường cùng, không lối thoát thân.
“Đêm
trước khi đi, nó đưa cho ngộ cái này, nói nếu nị còn sống sót trở về, thì đưa
lại cho nị. Hu hu!”
Trong cái bọc ny lon, chú Phu đưa cho tôi, là chiếc áo bà ba hình chữ hỉ tôi may cho em ngày cũ.
Muội ơi! Xác em giờ ở phương nào. Trôi vào đất Thái hay vào Nam Dương. Áo bà ba, Muội yêu, hòa biển tím. Tình còn đây trời đày ta mất nhau.
Tôi không còn khóc được nữa, nước mắt tôi đã cạn lâu rồi. Miệng tôi méo xệch như mếu, mắt chớp chớp, mặt nhăn nhúm, giựt giựt.
“Muội ơi! Anh sẽ đem chiếc áo bà ba hình chữ hỉ của chúng mình theo, ra biển!”
Trong cái bọc ny lon, chú Phu đưa cho tôi, là chiếc áo bà ba hình chữ hỉ tôi may cho em ngày cũ.
Muội ơi! Xác em giờ ở phương nào. Trôi vào đất Thái hay vào Nam Dương. Áo bà ba, Muội yêu, hòa biển tím. Tình còn đây trời đày ta mất nhau.
Tôi không còn khóc được nữa, nước mắt tôi đã cạn lâu rồi. Miệng tôi méo xệch như mếu, mắt chớp chớp, mặt nhăn nhúm, giựt giựt.
“Muội ơi! Anh sẽ đem chiếc áo bà ba hình chữ hỉ của chúng mình theo, ra biển!”
Đoàn Xuân Thu
Gà
ta chuyển tiếp từ Facebook
_______________________________________________________
"Chiếc áo bà ba in hình chữ hỷ" khiến người đọc phải ngậm ngùi.
ReplyDeleteCám-ơn Gà Tây, í quên Gà Ta đã chuyển tiếp một bài viết hay.