Minh Tạo
(hình minh họa)
|
Sáng nào cũng thấy thằng nhỏ cầm cái lon đứng chầu chực trước quán
ăn.
Tôi để mắt theo dõi thì hễ thấy thực khách vừa kêu tính tiền thì
thằng bé chạy vào nhìn vào những cái tô, nếu còn thức ăn dư mứa thì nó vội vã
trút vào cái lon rồi chạy ra ngoài đứng ngóng tiếp. Khi cái lon gần đầy thì nó biến mất, chập sau thấy nó lại có mặt
thập thò trước quán tiếp tục. Bàn tôi ngồi thì đứa bé không bao giờ quan tâm
tới, vì mỗi sáng tôi chỉ đủ tiền uống một ly xây chừng vì tôi cũng nghèo, cải
tạo mới về, sáng nhịn đói ngồi uống cà phê đen như một cái thú hay một cái tật không bỏ được.
Cứ thế, mà hơn một năm tôi mới quen được và tìm hiểu chút ít về
hoàn cảnh gia đình của đứa bé. Tôi cố tình làm quen với thằng bé nhờ hôm ấy
trời mưa, thằng bé đứng nép vào trong quán. Thằng bé đứng nép vào ngày càng sâu
hơn trong quán vì mưa ngày càng lớn chỉ cách tôi chừng độ nửa thước. Tôi vói
tay kéo nó ngồi xuống bàn và hỏi nó có thích uống cà phê không ?
Thằng bé lắc đầu lia lịa và nói không uống. Tôi hỏi nó làm gì ngày
nào cũng ra đây ? và hiện sống với ai ? Thằng bé như đoán được rằng tôi chỉ là
người khách ghiền cà phê nặng nên hằng ngày đóng đô ở đây nên nó cũng trả lời
nhanh nhẹn rằng :
- Con sống với ba má con, Ba con đi làm
xa còn Má con đi phụ buôn bán ở ngoài chợ…
Tôi hỏi tiếp :
- Còn con có đi học không ?
Thằng bé nói :
- Con không có đi học… con ở nhà phụ với
má nuôi heo…
Đó là lý do để nói lên sự hiện diện hằng ngày của nó nơi quán ăn
nầy. Nghe thằng bé nói như thế, tôi nói với chị chủ quán ăn giúp cho nó lấy
những cơm và thức ăn thừa, và cũng từ đó nó không còn đứng lúp ló ngoài cửa
quán nửa. Và nhờ tánh tình hiền hậu thật thà chị chủ quán cho nó vô phụ dọn bàn
đề lấy thức ăn dư mang về và cho nó ăn uống để phụ việc. Từ đó tôi và nó gần
gũi nhau hơn và thân với nhau lắm.
Có lần thằng bé hỏi tôi :
- Chú làm nghề gì vậy hả chú ?
Tôi chỉ trả lời ngắn gọn là ”Chú
đang làm thinh”.
Đúng vậy mới cải tạo về mà, vợ con thì đã theo bên ngoại vượt biển
hết rồi, nghe đâu đã định cư bên Úc, nay về ở với mẹ già, ngày một buổi cà phê
hai bữa cơm độn qua ngày. Thời gian ngột ngạt chậm chạp trôi qua, may mắn vợ
chồng tôi đã bắt liên lạc được với nhau. Thế là những bữa cơm không còn ăn độn
khoai củ hay bo bo nữa nhưng vẫn quen cử sáng cà phê quán gần nhà. Không biết
chị chủ quán có bỏ bùa mê hay tôi ghiền chổ ngồi hay không mà không bữa nào
vắng tôi. Một hôm, tôi đề nghị theo thằng bé về nhà nó chơi cho biết vì nó nói
ở cũng gần không xa lắm. Thấy nó do dự và tỏ vẻ sợ sệt, tôi biết ngay nó đang
giấu diếm điều gì. Thương nó lắm, tôi dúi tiền cho nó hoài. Mấy hôm sau tôi
lẳng lặng đi theo nó khi nó mang cơm và thức ăn dư về nhà buổi trưa. Khi thấy
nó lủi vô một cái chòi nhỏ xíu thì tôi thật sự không ngờ.
Đứng dưới gốc cây gòn cách nhà nó không xa tôi thầm nghĩ, nhà chút
xíu như vậy mà gia đình ba người ở thì chỗ đâu mà nuôi heo. Tôi đang đứng suy
nghĩ đốt cũng hết mấy điếu thuốc thì thằng nhỏ lục đục xách lon xách nồi đi ra
quán để thu dọn thức ăn buổi chiều. Đợi thằng bé đi khuất tôi lò mò đến nơi mà
hồi nãy nó vào. Đến đó mới nhìn rõ thì thật ra đâu có phải là nhà, một lõm
trống được che dựng lên bằng những phế liệu đủ loại, muốn chui vào phải khom
mọp xuống. Nghe thấy có tiếng chân dừng lại, có tiếng đàn bà vọng ra hỏi. Tôi
trả lời là đi kiếm thằng Tuất, thì nghe giọng đàn ông cho biết nó vừa đi khỏi
rồi, và hỏi tôi là ai, mời tôi vào… Vừa khom người chui vào tôi mới thật sự
không ngờ những gì hiển hiện trước mắt tôi.
(hình minh họa)
Người
đàn ông hốc hác cụt hai giò tuổi cũng trạc tôi nhưng trông yếu đuối, lam lũ và
khắc khổ lắm; một người đàn bà bệnh hoạn xác xơ. Cả hai đang ăn những thức ăn
thừa mà thằng bé vừa mới đem về. Vừa bàng hoàng, vừa cảm động vừa xót xa, nước
mắt tôi bất chợt tuôn rơi mặc dù tôi cố nén…
Từ
đó, tôi hiểu rõ về người phế binh sức tàn lực kiệt sống bên người vợ thủy chung
tảo tần nuôi chồng bao năm nay giờ mang bịnh ác tính nặng nề thật đau xót. Tôi
móc hết tiền trong túi biếu tặng và cáo lui. Về đến nhà tôi vẫn bị ám ảnh mãi
về hoàn cảnh bi thương của gia đình thằng bé mà tôi bỏ cơm nguyên cả ngày luôn.
Sáng
hôm sau ra uống cà phê, thằng bé gặp tôi nó lấm lét không dám nhìn tôi vì nó đã
biết trưa hôm qua tôi có tới nhà nó. Nó thì tỏ vẻ sợ tôi, nhưng tôi thực sự vừa
thương vừa nể phục nó nhiều lắm. Tôi kêu nó lại và nói nhỏ với nó tại sao không
cho tôi biết. Tội nghiệp nó cúi đầu im lặng làm lòng tôi thêm nỗi xót xa.
Có
khách kêu trả tiền, như có cơ hội né tránh tôi nó chạy đi dọn bàn và tiếp tục
công việc thu dọn thức ăn. Hèn gì sau nầy nó để thức ăn dư phân loại đàng hoàng
lắm. Tội nghiệp hoàn cảnh của thằng bé mới mấy tuổi đầu mà vất vả nuôi cha mẹ
theo khả năng chỉ tới đó. Cha là một phế binh cũ trước 75 cụt hai chân. Mẹ thì
bị bệnh gan nặng bụng phình trướng to khủng khiếp và cặp chân sưng vù lên đi
đứng thật khó khăn, nước da thì vàng mét như nghệ. Thằng bé là lao động chánh
trong gia đình, nó có hiếu lắm. Từ đó tôi thường cho tiền đứa bé mua bánh mì cơm
gạo về nuôi cha mẹ.
Vợ
tôi làm thủ tục bảo lãnh tôi sang Úc. Ngày tôi đi tôi đau xót phải để lại hai
nỗi buồn đó là để mẹ và em gái lại quê nhà và không còn cơ hội giúp đỡ thằng bé
nữa. Sang Úc định cư, tôi sống tại tiểu bang Victoria . Mấy năm đầu tôi hết sức cơ cực vì
phải vật lộn với cuộc sống mới nơi đất mới và đối với tôi tất cả đều mới mẻ và
xa lạ quá. Từ ngôn ngữ đến thời tiết đã làm tôi lao đao không ít. Thỉnh thoảng
tôi gởi tiền về nuôi mẹ và em gái không quên dặn em gái tôi chuyển cho thằng bé
chút ít gọi là chút tình phương xa.
Mấy
năm sau tôi về thăm gia đình, tôi có ghé tìm thằng bé thì nó không còn lấy thức
ăn trong quán đó nữa. Tôi mới kể rõ hoàn cảnh thằng bé cho chị chủ quán biết.
Chị chủ quán đôi mắt đỏ hoe trách tôi sao không cho chị biết sớm để chị tìm
cách giúp gia đình nó. Tôi chỉ bào chữa rằng tại thằng bé muốn giấu không cho
ai biết. Tôi ghé vội qua nhà thằng bé thì mới hay mẹ nó đã qua đời vì căn bệnh
ung thư gan. Chỉ còn chèo queo một mình ba nó ở trần nằm một góc trông hết sức
thương tâm. Hỏi thăm thì mới biết nó đã xin được việc làm đi phụ hồ kiếm tiền
về nuôi cha.
Chúa
nhật tôi tới tìm thằng bé, chỉ mới có mấy năm mà nó đã cao lớn thành thanh niên
rất đẹp trai duy chỉ đen đúa vì phơi nắng để kiếm đồng tiền. Tôi dẫn nó trở ra
quán cà phê cũ, thấy nó hơi ái ngại, tôi trấn an nó là bà chủ quán tốt lắm tại
không biết được hoàn cảnh gia đình nó. Ra đến quán ăn chị chủ quán năn nỉ nó về
làm với chị, dọn dẹp và bưng thức ăn cho khách nhẹ nhàng hơn đi phụ hồ và chị
sẽ trả lương như đang lãnh bên phụ hồ. Tối về thức ăn thường bán không hết chị
cho đem về nhà dùng khỏi phải mua hay đi chợ. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc,
chị chủ quán cũng khóc theo làm tôi phải đứng dậy bỏ ra ngoài để khỏi phải rơi
nước mắt vì chịu không nỗi.
Thằng
Tuất vừa khóc vừa nói : “Sao ai cũng tốt
với gia đình con hết đó, nhưng vì con đang làm phụ hồ cho anh Năm, anh ấy cũng
tốt lắm giúp đỡ gia dình con nhiều lắm, sáng nào cũng mua cho ba con gói xôi
hay bánh mì trước khi tụi con đi làm. Con cũng mang ơn ảnh nhiều nên con không
thể nghỉ được, con xin lỗi”. Không biết thằng Tuất nó nói thật hay nó ái
ngại khi quay về chỗ mà ngày nào cũng cầm cái lon chầu chực trút đồ ăn dư về
nuôi cha mẹ. Phải thông cảm nó, phải hiểu cho nó, phải cho nó có cái hiện tại
và tương lai tốt hơn, đẹp hơn ngày trước. Chị chủ quán vừa gạt nước mắt vừa nói
: “Bất cứ lúc nào con cần đến cô thì con
đừng ngại, cho cô biết nhé“.
Đời
nầy cũng còn có những hoàn cảnh bi đát ít ai biết đến, và cũng có những đứa con
xứng đáng như thằng Tuất. Ngày về lại Úc, tôi đến biếu hai cha con nó hai triệu
đồng, thấy nó và ba nó mừng lắm tôi cũng vui lây. Không biết phải giúp gia đình
nó như thế nào, tôi chụp hình ba nó, photo giấy tờ ba nó đem về Úc gởi cho Hội
Cứu Trợ Thương Phế Binh Bị Quên Lãng trụ sở ở Sydney . Mấy tháng sau nhận được thư ba thằng
Tuất viết qua, ông quá vui mừng khi được Hội bên Úc giúp đỡ gởi tiền về. Ông
cho biết suốt bao nhiêu năm qua lần đầu tiên ông thấy được niềm hạnh phúc khi
cuộc đời phế binh của ông còn có người nhớ đến.
Không
biết ông ấy vui bao nhiêu mà chính tôi cũng hết sức vui mừng khi thực hiện một
việc làm đem niềm vui đến cho những người phế binh sống hết sức đói nghèo bên
quê mẹ.
Tôi
xin cảm ơn cả hai: Người Chiến Sĩ Vô Danh sống trong hẩm hiu và Hội Cứu Trợ
Thương Phế Binh đã thể hiện tình người trong công việc hết sức cao cả này.
Minh Tạo
No comments:
Post a Comment