Trần Trung Đạo
Nếu phải xếp hạng những bài hát được sinh ra và lớn lên cùng với thăng trầm của đất nước, với thao thức của thanh niên, sinh viên, học sinh, với tâm trạng của những người lính trẻ trong cuộc chiến tranh tự vệ đầy gian khổ ở miền Nam trước đây, tôi tin, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của Nhạc Sĩ Du Ca Nguyễn Đức Quang sẽ là một trong những bài ca được xếp hàng đầu.
Không giống như một số hành khúc quen thuộc trong
giới trẻ trước 1975 như Dậy Mà Đi của Nguyễn Xuân Tân, Tổ Quốc Ơi Ta Đã Nghe
của La Hữu Vang thiết tha, mạnh mẽ nhưng chỉ giới hạn trong các phong trào sinh
viên tranh đấu và ngay khi ra đời đã bị Đảng sử dụng cho mục đích tuyên truyền
trong các trường đại học, các đô thị miền Nam; hay Việt Nam Việt Nam của Phạm Duy
chan chứa tình dân tộc, kêu gọi người người thương mến nhau nhưng thiếu đi cái
hùng khí, sôi nổi của tuổi trẻ, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của Nguyễn Đức
Quang không dừng lại ở nỗi đau của đất nước mà còn nói lên cả những bi thương,
công phẫn, thách đố của tuổi trẻ Việt Nam trước những tàn phá của chiến tranh
và tham vọng của con người.
Trong vườn hoa âm nhạc Việt Nam, Việt Nam Quê Hương
Ngạo Nghễ nổi bật lên như một biểu tượng cho khát vọng của một dân tộc đã vượt
qua bao nhiêu gian nan khốn khó để tồn tại và vươn lên cùng các dân tộc khác
trên mặt đất nầy.
Ta như nước
dâng dâng tràn có bao giờ tàn
Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang
Lê sau bàn chân gông xiềng của thời xa xăm
Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loang xoang.
Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang
Lê sau bàn chân gông xiềng của thời xa xăm
Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loang xoang.
Lời nhạc của Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ tương đối
khó nhớ nhưng nhờ cách sử dụng ngôn ngữ trẻ trung, mạnh mẽ, tượng thanh, tượng
hình như “tiếng cười ngạo nghễ”, “xích
kêu loang xoang”, “trên bàn chông hát cười đùa vang vang” hay “Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi”
đã làm cho Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ trở thành độc đáo, không giống như
những bài ca yêu nước khác với những ý tưởng quen thuộc và lời ca phần lớn là
lập lại nhau.
Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đẹp tự nhiên như một đoá
lan rừng, không mang màu sắc chính trị, không nhằm cổ võ hay biện minh cho một
chủ nghĩa nào, không cơ quan nhà nước nào chỉ đạo thanh niên sinh viên học sinh
phải hát và bài hát cũng chẳng nhằm phục vụ lợi ích riêng của chính quyền, tôn
giáo hay đảng phái chính trị nào. Trước 1975, từ thành phố đến thôn quê, từ các
trường trung học tỉnh lẻ đến đại học lớn như Huế, Sài Gòn, từ các phong trào
Hướng Đạo, Du Ca đến các tổ chức trẻ của các tôn giáo như Thanh Niên Công giáo,
Gia Đình Phật tử, từ các quân trường Đà Lạt, Thủ Đức, Quang Trung, Nha Trang
đến các tổ chức, đoàn thể xã hội từ thiện đều hát Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ.
Sau 1975, bài hát theo chân hàng trăm ngàn sĩ quan và
viên chức miền Nam
đi vào tù. Nhiều hồi ký, bút ký kể lại Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đã được hát
lên, kín đáo hoặc cả công khai, ở nhiều trại tù khắp ba miền đất nước. Trong
tận cùng của đói khát, khổ nhục, đớn đau, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đã hoá
thành những hạt cơm trắng, hạt nếp thơm nuôi sống tinh thần những người lính
miền Nam sa cơ thất thế.
Những năm sau đó, bài hát, như tác giả của nó và hàng
triệu người Việt khác lên đường ra biển tìm tự do. Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ
lại được hát lên giữa Thái Bình Dương giông bão, hát lên ở các trại tỵ nạn
Palawan, Paula Bidong, Panat Nikhom trong nỗi nhớ nhà, hát lên ở Sungai Besi,
White Head trong những ngày chống cưỡng bách hồi hương, hát lên ở San Jose,
Santa Ana, Boston, Paris, Oslo, Sydney trong những cuộc biểu tình cho tự do dân
chủ Việt Nam, hát lên ở các Trại Hè, Trại Họp Bạn Hướng Đạo, các Tổng Hội Sinh
Viên Việt Nam tại hải ngoại.
Nhạc Sĩ Nguyễn Đức Quang, trong buổi phỏng vấn dành
cho chương trình Tiếng Nói Trẻ đã kể lại câu chuyện ra đời của Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ trong âm nhạc Việt Nam : “… Thế bài
Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ cũng vậy, nó không phải là một bài ca tôi nghĩ là
quá lớn, nhưng lúc bấy giờ khi tôi kết thúc tập Trường Ca vào năm 1965, cuối
1965 hay đầu 1966 gì đó, khoảng thời gian đó, 10 bài trường ca, những bài như
Nỗi Buồn Nhược Tiểu, Tiếng Rống Đàn Bò, Lìa Nhau, Thảm Kịch Khó Nói v.v… những
bài nói về đất nước của mình rất là khổ sở, tôi nghĩ nên kết nó bằng một bài
hát có tiếng gọi hùng tráng và tha thiết hơn. Thành ra tôi viết bài Việt Nam Quê Hương
Ngạo Nghễ một cách rất là dễ dàng. Tất cả những ý đó tôi đem vào hết trong bài
hát đó để nó vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu
mà trở thành một nước to lớn, và lòng người cực kỳ dũng mãnh. Viết xong bài đó
tôi nghĩ chỉ kết thúc tập Trường Ca mà thôi, không ngờ về sau càng ngày đi các
nơi càng thấy nhiều người ưa thích bài đó, có lẽ đáp được ước vọng của nhiều
người. Tôi nghĩ tiếng gọi đáp ứng đúng được tiếng của nhiều người, không riêng
gì giới trẻ đâu, cả người lớn tuổi ở các hội đoàn về sau này, rồi đi vào trong
quân đội, đi rất nhiều nơi. Thành ra, tôi cho đó là một bài hát tự nó trưởng
thành nhưng khi viết tôi chỉ đúc kết cho tập Trường Ca lúc đó mà thôi.”
Thật đơn giản và tự nhiên như thế. Không một ông Bộ
Trưởng Bộ Chiêu Hồi nào đặt hàng hay một ông Tổng Ủy Trưởng Dân Vận nào chỉ thị
anh phải viết. Anh viết không phải để thi đua sáng tác hay mong mang về giải
thưởng, huân chương. Trong tâm hồn của một nghệ sĩ chân chính, tình yêu nước
bao giờ cũng là sự thôi thúc tự nguyện. Anh viết Việt Nam Quê Hương
Ngạo Nghễ để kết thúc tập trường ca của riêng anh nhưng cũng nối tiếp tập
trường ca lớn hơn của đất nước. Sau ba mươi năm, nhiều nhạc sĩ, ca sĩ đã trở về
qua nhiều ngả, trong nhiều tư cách khác nhau, một số tình ca sáng tác trước
1975 đã được nghe lại trong nước, nhưng đây là lần đầu tiên một bài hát đã về lại
quê hương qua ngả của trái tim, trở về trong vòng tay nồng ấm của tuổi trẻ Việt
Nam.
Bất ngờ và cảm động, một buổi sáng tuần trước, khi đi
dạo một vòng qua các blog Việt ngữ, tôi bắt gặp không chỉ những mẫu tin nóng
viết vội vàng trên đường phố, những đoạn phim biểu tình vừa mới đưa lên
YouTube, những tấm hình ghi lại cảnh xô xát giữa đồng bào, sinh viên với công
an, nhưng còn được nghe lại bài hát quen thuộc Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ.
Tôi cảm nhận qua lần gặp gỡ đó một niềm vui chung khi có một bản nhạc mà các em
sinh viên Việt Nam ở California, Washington DC, Oslo, Paris, Hà Nội, Sài Gòn
cùng hăng say hát trong những cuộc biểu tình chống Trung Quốc bành trướng bá
quyền mà không cảm thấy ngần ngại, nghi ngờ, xa cách.
Ta khua
xích kêu vang dậy trước mặt mọi người
Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi
Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi
Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian.
Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi
Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi
Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian.
Trong số một trăm em đang hát trong nước hôm nay có
thể hơn chín mươi em chưa hề nghe đến tên Nguyễn Đức Quang lần nào, và nếu có
nghe, có đọc qua bộ máy tuyên truyền của Đảng, cũng chỉ là một “nhạc sĩ ngụy đã
theo chân đế quốc”. Biết hay không biết, nghe hay không nghe không phải là điều
quan trọng. Điều quan trọng là bài hát đã đáp ứng được ước vọng về tương lai và
tình yêu tổ quốc của tuổi trẻ. Tổ quốc, vâng, không có gì lớn hơn tổ quốc. Văn
hoá không phải chỉ là đời sống của một dân tộc mà còn là những gì giữ lại được
sau những tàn phá, lãng quên. Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ sau 30 tháng Tư 1975
hẳn đã nằm trong danh sách các tác phẩm “văn hoá đồi trụy” mà Đảng tìm mọi cách
để xóa bỏ, tận diệt. Thế nhưng, như giọt nước rỉ ra từ kẽ đá và như bông hoa
mọc giữa rừng gai, bài hát đã sống sót, đã ra đi và đã trở về. Để tồn tại, một
bài thơ, một bản nhạc cũng phải trải qua những gạn lọc, những cuộc bỏ phiếu
công bằng không chỉ của người nghe, người đọc dưới một chế độ chính trị nào đó
mà còn của cả lịch sử lâu dài. Bài hát phát xuất từ tình yêu nước trong sáng
như Việt Nam Quê Hương Ngạo
Nghễ sẽ ở lại rất lâu trong lòng tuổi trẻ Việt Nam hôm nay và nhiều thế hệ mai
sau. Là một người thích tham gia các sinh hoạt văn nghệ cộng đồng, bài hát mang
tôi về thời trẻ tuổi của mình.
Tôi còn nhớ, mùa hè 1973, khi còn là sinh viên năm
thứ nhất, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ cũng là nhạc sinh hoạt chính của trại hè
sinh viên toàn quốc quy tụ đại diện sinh viên các trường đại học và cả sinh
viên du học về nghỉ hè, do Bộ Giáo Dục và Thanh Niên tổ chức lần đầu và có lẽ
cũng là lần cuối tại trường Thiếu Sinh Quân, Vũng Tàu. Đêm trước ngày chia tay,
chúng tôi không ai ngủ được. Ngày mai sẽ mỗi người mỗi ngả, chị về Huế, anh về
Đà Lạt, em về Cần Thơ và đa số chúng tôi sẽ trở lại Sài Gòn. Cùng một thế hệ
chiến tranh như nhau, khi chia tay biết bao giờ còn gặp lại. Những ngày tháng
đó, cuộc chiến vẫn còn trong cao điểm. Mỹ đã rút quân nên máu chảy trên ruộng
đồng Việt Nam chỉ còn là máu
Việt Nam .
Thảm cảnh của “mùa hè đỏ lửa” chưa qua hết. Trên khắp miền Nam, đâu đâu cũng có
đánh nhau, đâu đâu cũng có người chạy giặc. Mơ ước của tuổi trẻ chúng tôi là
được thấy một ngày đất nước hoà bình, một ngày quê hương không còn nghe tiếng
súng. Đêm cuối trại hè, chúng tôi ngồi quây quần thành một vòng tròn rộng quanh
cột cờ trường Thiếu Sinh Quân và hát nhạc cộng đồng như để vơi đi những vương
vấn, lo âu đang trĩu nặng trong lòng. Bài hát được hát nhiều nhất trong đêm đó
là Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ, và khi điệp khúc cất lên cũng là khi chúng tôi
hát trong nước mắt:
Máu ta từ
thành Văn Lang dồn lại
Xương da thịt này cha ông miệt mài
Từng giờ qua
Cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi.
Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang
Trên bàn chông hát cười đùa vang vang
Còn ViệtNam
Triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng.
Xương da thịt này cha ông miệt mài
Từng giờ qua
Cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi.
Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang
Trên bàn chông hát cười đùa vang vang
Còn Việt
Triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng.
Những giọt nước mắt của tuổi sinh viên nhỏ xuống xót
thương cho dân tộc mình. Tại sao có chiến tranh và tại sao chiến tranh đã xảy
ra trên đất nước chúng tôi mà không phải tại một quốc gia nào khác? Mấy tháng
sau, tháng Giêng năm 1974, bài hát Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đã được hát
vang trên đường phố Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, Cần Thơ sau khi Hoàng Sa rơi vào tay
Trung Quốc. Những bản tin đánh đi từ Đà Nẵng, danh sách những người hy sinh
được đọc trên các đài phát thanh làm rơi nước mắt.
Và hôm nay, ba mươi ba năm sau, trong cái lạnh mùa
đông trên xứ người, những lời nhạc Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ từ YouTube
phát ra như xoáy vào tim. Tôi lại nghĩ đến các anh, những người đã hy sinh ở
Hoàng Sa tháng Giêng năm 1974, ở Trường Sa tháng Ba năm 1988. Các anh khác nhau
ở chiếc áo nhưng cùng một mái tóc đen, một màu máu đỏ, một giống da vàng, cùng
ăn hạt gạo thơm, hạt muối mặn, cùng lớn lên bằng dòng sữa mẹ Việt Nam, và cùng
chết dưới bàn tay hải quân Trung Quốc xâm lăng. Việt Nam, sau ba mươi ba năm
“độc lập, tự do” vẫn chưa thoát ra khỏi số phận nhược tiểu bị xâm lược, vẫn
chưa tháo được cái vòng kim cô Trung Quốc trên đầu. Việt Nam có một lãnh
hải dài trên ba ngàn cây số nhưng thực tế không còn có biển. Cả hành lang Đông
Hải rộng bao la từ Hải Nam đến Hoàng Sa và xuống tận Trường Sa đã bị Trung Quốc
chiếm. Nếu vẽ một đường cung dọc theo lãnh hải đó, ngư dân Việt Nam chỉ còn có
thể đi câu cá ven bờ chứ không thể đánh cá như ngư dân Trung Quốc, Nhật Bản,
Thái Lan hay các quốc gia khác trong vùng biển Đông. Phía sau tấm bảng in đậm
“mười sáu chữ vàng” hữu nghị thắm thiết giữa hai Đảng Cộng sản Việt Nam và
Trung Quốc là thân xác của ngư dân Việt Nam trôi bềnh bồng dọc các hải đảo của
tổ tiên mình để lại.
Trong suốt dòng lịch sử, hoạ xâm lăng từ phương Bắc
vẫn là mối đe doạ thường xuyên. Khác với các thời đại trước đây, cái bất hạnh
của Việt Nam
ngày nay không phải chỉ là mất đất nhưng mất đất mà không đòi lại được ngay.
Cuộc kháng Nguyên lần thứ nhất trong hàng vương tước nhà Trần chỉ có mỗi Trần
Nhật Hiệu chủ trương “Nhập Tống” và lần thứ hai chỉ có Trần Ích Tắc và đám hầu
tước Trần Kiện, Trần Văn Lộng, Trần Tú Viên chủ trương “Hàng Nguyên” nhưng ngày
nay, về mặt lập trường quan điểm, Việt Nam có đến 14 Trần Ích Tắc và 160 Trần
Kiện. Trận đụng độ giữa Việt Nam và Trung Quốc diễn ra tại Trường Sa năm 1988
theo tác giả Daniel J. Dzurek trong biên khảo Xung Đột Trường Sa: Ai có mặt
trước? (The Spratly
Islands Dispute: Who’s on
First?) chỉ kéo dài vỏn vẹn 28 phút và Việt Nam chịu đựng hầu hết thương vong.
Với một giới lãnh đạo tham quyền cố vị và sự chênh lệch quá xa về kỹ thuật
chiến tranh như thế, cuộc đấu tranh giành lại hai quần đảo sẽ vô cùng khó khăn.
Dù sao, tuổi trẻ Việt Nam, khác với các thế hệ Tân
Trào, Pác Bó trước đây, thế hệ Hoàng Sa, Trường Sa ngày nay có nhiều cơ hội
tiếp xúc, học hỏi và so sánh giữa chế độ các em đang sống với các tư tưởng tự
do dân chủ, khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhờ đó, hy vọng các em sẽ có những
chọn lựa đúng cho mình và cho đất nước phù hợp với dòng chảy của văn minh nhân
loại.
Trong cuộc chiến Việt Nam dài mấy mươi năm Đảng đã
sản xuất ra không biết bao nhiêu bài hát, bài thơ kích động lòng yêu nước nhưng
tại sao các em không đọc, không hát nữa? Như một độc giả trong nước đã trả lời,
đơn giản chỉ vì chúng nhạt nhẽo. Ý thức sâu sắc đó đã được thể hiện không chỉ
trong khẩu hiệu các em hô mà ngay cả trong những bài hát các em hát. Sau những
Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Đại Thắng, Dậy Mà Đ i, Nối Vòng Tay Lớn của những
ngày đầu phong trào, các bạn trẻ trong nước đã đi tìm những nhạc phẩm nói lên
lòng yêu nước trong sáng, tích cực, không bị ô nhiễm, chưa từng bị lợi dụng và
họ đã tìm được Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ.
Ta như
giống dân đi tràn trên lò lửa hồng
Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm
Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi
Ôm vết thương rỉ máu ta cười dưới ánh mặt trời.
Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm
Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi
Ôm vết thương rỉ máu ta cười dưới ánh mặt trời.
Mỗi khi nhắc đến những khó khăn đất nước, chúng ta
thường nghe đến những “bất hạnh”, “nỗi đau”, “tính tự ti mặc cảm”, vâng đó là
một thực tế hôm nay, thế nhưng dân tộc Việt Nam “vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
nước non bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” như Nguyễn Trãi khẳng
định, không phải chỉ biết đau, biết tự ti mặc cảm mà thôi nhưng từ những nỗi
đau đã biết lớn lên bằng tự hào và kiêu hãnh làm người Việt Nam. Chỗ dựa tinh
thần của tuổi trẻ Việt Nam
hôm nay không có gì khác hơn là lịch sử. Không thể làm nên lịch sử mà không cần
học lịch sử. Lịch sử sẽ là vũ khí, là hành trang trong hành trình tranh đấu cho
một nước Việt Nam mới, cũng như để xây dựng một Việt Nam tươi đẹp sau nầy.
Ta khuyên
cháu con ta còn tiếp tục làm người
Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam
Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian
Hỡi những ai gục xuống ngoi dậy hùng cường đi lên.
Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam
Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian
Hỡi những ai gục xuống ngoi dậy hùng cường đi lên.
Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ như giọt nước mắt bi
tráng của tuổi trẻ Việt Nam ngày nào nhỏ xuống trên quê hương chiến tranh khốn
khổ, đã bốc thành hơi, tụ thành mây và sau bao năm vần vũ khắp góc bể chân trời
đã trở về quê hương qua ánh mắt của em, qua nụ cười của chị, qua tiếng hát của
anh, hồn nhiên và trong sáng.
Từ “vết
thương rỉ máu” của
một dân tộc đã từng bị nhiều đế quốc thay phiên bóc lột, lợi dụng và hôm nay
còn đang chịu đựng trong áp bức của độc tài đảng trị, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ
cất lên như một lời khuyên, hãy sống và hãy vững tin vào lịch sử, sẽ có một
ngày, sẽ có một ngày.
Trần Trung Đạo - (nguồn talawas.org)
____________________________________________________________________
Trước ' 75, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đã làm nức lòng thanh thiếu niên trẻ tuổi của chúng tôi, rồi hàng hàng lớp lớp đã "xuống đường / lên đường".
ReplyDeleteHôm nay, cũng chính bài hát này đã hâm nóng lại bầu nhiệt huyết của chúng tôi tuy bây giờ mình đã "lực bất tòng tâm".
Chân thành cám ơn Nhạc Sĩ Nguyễn Đức Quang và Tác Giả Trần Trung Đạo đã trải lòng mình qua bài viết Khi Bài Hát Trở Về.
Gần 40 năm qua, có lúc cảm thấy tuyệt vọng, có lúc tưởng chừng hy vọng về một ngày mai tươi sáng của đất nước sẽ mãi mãi không thể thành hiện thực..
ReplyDeleteNhưng rồi thật ngạc nhiên khi thế hệ trẻ trong nước đã dấn thân để vực dậy, để thắp sáng niềm tin về một hy vọng cho dân tộc cho đất nước..
Tuổi trẻ VN là rường cột, là tương lai của quốc gia. Chúng ta, đành rằng đã "lực bất tòng tâm" nhưng vẫn sẵn sàng làm những cánh tay nối dài hỗ trợ .. để cùng nhau :
Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang
Trên bàn chông hát cười đùa vang vang
Còn Việt Nam
Triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng.
Cám ơn Nhạc Sĩ Nguyễn Đức Quang và Tác Giả Trần Trung Đạo. Cũng cám ơn Anh Lê Huy đã chuyển tải bầu nhiệt huyết này đến cùng mọi người.
Quí mến ./QN11
Rất hay
ReplyDeleteFR: Thao N
ReplyDeleteCháu chào cô,
Cháu tên là Thảo N, cháu đang ở Việt Nam. Cháu rất thích nấu ăn và trồng trọt, nên cách đây mấy năm cháu lang thang trên mạng tìm cách nấu một số món ăn nên cháu đã tìm đến được trang web của cô. Thật ra ban đầu cháu chỉ xem mỗi một mục" trong bếp ngoài vườn" của cô thôi nhưng sau này cháu đã xem hết tất cả các mục trong web của cô và cháu cảm thấy web của cô thật giản dị và gần gũi, tất cả những gì cô chia sẽ đều là kinh nghiệm bản thân, suy nghĩ thật lòng... của cô. Mấy hôm nay tình hình ở Việt Nam và biển đông bất ổn như thế nào chắc chắn cô biết rất rõ, cháu biết cô vẫn luôn quan tâm và luôn hướng về Việt Nam. Sao cô không viết một bài chia sẻ ý kiến cá nhân và sự hiểu biết của cô về vấn đề này cho mọi người cùng xem? Thật sự cháu muốn được biết cô nghĩ như thế nào. Đọc báo ở Việt Nam cháu cảm thấy không khách quan cô à. Nếu cháu có viết gì không phải làm cô không vui, xin cô bỏ qua cho cháu vì cháu còn trẻ nên giọng văn lời nói vẫn còn non nớt lắm.
Cháu kính chúc cô khỏe mạnh và luôn vui vẻ!
TN