Cẩm tú Cầu
Ảnh minh họa |
Khi đến Bồng Sơn ba được một người bạn cho ở nhờ trong
một căn phòng nhỏ để vừa một cái giường còn con đường đi phải nghiêng
lại mới đi vào được, nhà lợp bằng lá dừa phên trét đất có cái ngạch cửa
cao cao, mái hiên rộng, hè cao và xung quanh giữ đất bằng những cây gỗ
đóng cọc, lúc này mẹ đau, mẹ bị cái mụt nơi mắc cá chân sưng to mưng mủ
đau nhứt mẹ rên rỉ suốt, rồi mẹ bị ho nữa, phải ở lại nơi đây hơn mười
ngày, mẹ đau làm nủng ghê gớm, ba thì đi suốt hình như ba đi tìm việc
làm, rồi khi về ba mua bánh tráng cơm và khoai
lang nấu về ăn không nấu cơm. Căn nhà ở cách cầu Bồng Sơn 100m về phía Bắc, nơi này là Trung Lương có một con đường rộng sát bờ sông chạy dài về hướng Tây, nhà hướng mặt ra phía sông. ở đây nắng rất dịu êm và thời tiết rất hiền hòa. Mỗi buổi chiều tôi ngồi trên ngạch cửa nhìn ra giòng sông Lại Giang, khúc này rất rộng vì nó hợp lại với con sông Ân Thường nước trong xanh, trên bờ không có tre mà có những hàng dừa nghiêng mình soi bóng xuống mặt nước, có những cây dừa ngả ra phía nước, nơi ấy chiều chiều những cậu con trai khoảng mười, mười một tuổi bò lên cây dừa rồi trần truồng nhảy ùm xuống sông để tắm, có những chiều mưa tôi nhìn ra giòng sông nước dập dềnh và mưa trút xuống, mặt sông như cái tổ ong khổng lồ, lòng bâng khuâng nghĩ không biết ngày mai đây ba mẹ mình sễ đến nơi đâu.
lang nấu về ăn không nấu cơm. Căn nhà ở cách cầu Bồng Sơn 100m về phía Bắc, nơi này là Trung Lương có một con đường rộng sát bờ sông chạy dài về hướng Tây, nhà hướng mặt ra phía sông. ở đây nắng rất dịu êm và thời tiết rất hiền hòa. Mỗi buổi chiều tôi ngồi trên ngạch cửa nhìn ra giòng sông Lại Giang, khúc này rất rộng vì nó hợp lại với con sông Ân Thường nước trong xanh, trên bờ không có tre mà có những hàng dừa nghiêng mình soi bóng xuống mặt nước, có những cây dừa ngả ra phía nước, nơi ấy chiều chiều những cậu con trai khoảng mười, mười một tuổi bò lên cây dừa rồi trần truồng nhảy ùm xuống sông để tắm, có những chiều mưa tôi nhìn ra giòng sông nước dập dềnh và mưa trút xuống, mặt sông như cái tổ ong khổng lồ, lòng bâng khuâng nghĩ không biết ngày mai đây ba mẹ mình sễ đến nơi đâu.
Một buổi sáng ba mẹ cùng sáu người nữa cùng cặp vợ
chồng chú Qua, nhưng chưa có con trong đoàn có mình tôi là nhỏ nhất, họ
đi về phía mặt trời lặn, con đường đi rộng rãi toàn đất pha cát sạch sẽ
và ngập bóng dừa, không có bóng nắng nào xen kẻ. Nhìn chung quanh ba tôi
buột miệng 'một làng quê rất thanh bình nhưng mà khung cảnh buồn quá'
vì suốt dọc đường chỉ gặp năm ba người đi ngược chiều, họ đứng lại
nhìn chúng tôi, còn nhà cửa rất thưa thớt. Đi được bảy cây số đến một
cái đình bên bờ sông nhưng đình không xây mặt ra phía sông mà hướng về
phía mặt trời mọc, chúng tôi ngồi tại đó, người đi kiếm củi, người xuống
sông vo gạo, gạo mang theo nhóm bếp nấu cơm ăn, tất cả mọi người đều
xới cơm trên miếng lá và bẻ cây trong bụi làm đủa, chỉ riêng gia đình
tôi có chén, có đủa mẹ đem theo, ăn cơm với muối mè và cá nục hấp rồi
kho, mua ở Bồng Sơn đem theo, tối lại mẹ đến nhà dân trong vùng xin cho
tôi và mẹ ngủ nhờ nhưng người ta chỉ cho mình tôi ngủ lại, xa mẹ trong
một khung cảnh lạ lẩm, nhà lạ vậy là tôi không chịu, cuối cùng mẹ con
đều ra đình làng ngủ dưới đất cùng đoàn tản cư sáng ra mẹ đi thuê nhà,
một căn trên của nhà nhỏ để được hai giường, chúng tôi ở được tháng,
thời gian này ba nấu rượu cho công ty Việt Thắng còn mẹ súc chai, rượu
nấu bằng thơm mít và chuối, lò rượu đặc ở sau lưng đình làng, một buổi
sớm mai ba mẹ dọn nhà đi nơi khác cách nơi ở cũ khoảng nửa cây số, một
cái nhà rộng thênh thang vắng chủ phía trước có cây bưởi mà ăn vào bị
hôi dầu lửa vô cùng, lúc này chắc mẹ gần sinh rồi, mẹ thèm kẹo đậu phụng
mỗi tối có trăng mẹ sai tôi đi đến cái quán khá xa, lối đi toàn là mía
cao ngất, tôi phải qua những đám mía rồi qua hai cái vườn cây rậm rì
đen thui, một màu đen ghê rợn, đến một cái quán mà chỉ để cái thẩu đựng
kẹo và cái đèn hột vịt nhỏ xíu trên một cái ghế, lúc về tôi vụt chạy
giữa những đám mía quanh co, có những con đom đóm chập chờn mà tôi
thường nghe kể đó là những hồn ma, tôi rùng mình rợn người nổi gai
ốc, một cảm giác sợ sệt bỗng vây chặt tôi.
Bên nhà tôi ở có ba mẹ con người đàn bà
góa, người mẹ làm lụng vất vả suốt ngày mà chẳng đủ nuôi con, đứa con
đầu là con trai tám tuổi rồi vẫn ở truồng, ba anh em đều không có quần
áo, mẹ thấy tội quá mẹ mới lấy các ống quần cũ của mẹ, mẹ may cho mỗi
đứa một cái quần đùi, nơi đây là thôn Long Mỹ, nước rất độc phần nhiều
là bịnh sốt rét, đàn ông đàn bà đều bị vàng da bủng beo. Vùng này chỉ
cách thị trấn Bồng Sơn có bảy cây số nhưng mà như xa xôi lắm, người dân
quê mùa thiếu học, chợ thì năm ngày mới đông một phiên, có nhà đám giỗ
không đúng phiên chợ, phải mua một miếng thịt ba chỉ nhỏ xíu về luộc để
dành, nước nấu cháo cúng còn thịt chia ra xào nấu, còn bửa ăn của họ
phần nhiều là muối kho với dừa, dọc con đường từ Trung Lương lên Long Mỹ
rất nhiều lò ép dầu dừa. Khi dừa khô có người tới mua và tự trèo hái
xuống, người ta trèo dừa bằng một cái vòng mang vào hai chân rồi thoăn
thoắt trèo lên cây dừa, khi xuống họ lóc vỏ dừa bằng cây nhọn, rồi đập
dừa ra bỏ nước, đem về lò ép dầu, đăc biệt ở đây chục dừa đến mười lăm
trái.
Chẳng bao lâu mẹ nghỉ làm rồi mẹ sinh em bé,
một bé trai đẹp tuyệt vời và bụ bẩm, lúc ấy sữa mẹ rất nhiều nên mẹ cho
con ông thơ ký Tú, thơ ký xã người giàu nhất xã bú nhờ vì vợ ông sinh
xong bị bại liệt, chắc là để đền ơn, ông đã cho ba mẹ cất nhà trên một
khu vườn xung quanh toàn là dừa còn chính giữa trồng sắn, khi ấy xưởng
rượu đóng cửa, ba làm một cái lò rèn nhưng mà chẳng ai rèn gì hết, cuối
cùng mẹ phải đi dạo quanh xóm mua gà vịt về nấu cháo bán vì lúc này công
ty Việt Thắng lại mở xưởng giấy sát bờ sông, tôi ngày ngày bế em mà cứ
ngồi sẳn rồi mẹ mới để em vào lòng. Tôi giữ em nhưng em nặng quá tôi
không bồng nổi, em tôi rất ngoan chẳng khóc bao giờ
Rồi một buổi chiều khoảng ba giờ, ba đi vắng
mẹ đi vắng em tôi sốt cao tay chân giật liên hồi, đến khi mẹ về mời thầy
cúng tôi thấy ông thầy thắp mấy cây hương hươ hươ làm phép, rồi đốt
giấy vàng bạc lấy tro cho em uống, chặp lâu mẹ tôi khóc , em tôi đã ra
đi vĩnh viễn rồi, tôi rưng rưng, mọi vật đều rưng rưng trước mắt tôi,
đến tối ba tôi đem thuốc hạ sốt về thì em không còn nữa, không còn nữa
rồi, ba mẹ tôi rất đau lòng, nhất là mẹ, mẹ kể em chưa một lần được mặc
áo mới, áo của em mẹ toàn may bằng ống quần cũ lúc ấy em được chín tháng
tuổi rất đẹp trai, thời gian ba chóng nguôi ngoai nhưng mẹ thì như nỗi
đau cứ thấm dần, thấm dần vào trái tim mẹ, mẹ thường nhắc đến em với bao
tiếc nuối xót thương, rồi mẹ khóc mãi, khóc mãi về sau và về sau nữa ai
nhắc tới em mẹ vẫn khóc nghẹn ngào, mẹ cứ dằn vặt tự trách mình sao
lại ngu dốt đi mời thầy cúng, mẹ nói đúng ra có con dại phải chuấn bị
thuốc hạ sốt trong nhà, mẹ đau đớn lắm, một nỗi đau đớn chết lịm cỏi
lòng
Lúc sau này khoảng nửa buổi sáng mẹ lại nấu
khoai lang mẹ xâu lại và cuốn bánh tráng với trứng vịt luộc tôi đội vào
xưởng giấy bán, ai mua chịu thì ghi vào giấy tôi đem về cho mẹ ghi vào
sổ, lúc này mẹ đã dạy tôi học ba kiếm đâu dưới Bồng Sơn một quyển quốc
văn giáo khoa thư cũ về cho tôi học, tôi còn nhớ có bài ' Xuân đi học
coi người hớn hở, gặp cậu Thu đi ở giữa đàng.......'. Có một chiều ba mẹ
ăn cơm sớm, ba cỏng tôi và dẫn mẹ đi qua sông rồi đi bộ thêm bốn cây số
nửa để coi kịch, tận bên Ân Thường, mà có màn kịch ( hai người bạn gặp
nhau một người định mua một đám ruộng và một người định mua một bầy vịt
để thả đồng vậy là hai người đáng lộn nhau tại sao thả vịt ăn lúa ruộng
của tui ), ba mẹ ra về cứ tiếc mãi công mình đi xa mà coi múa cóc , múa
nhái.
Ít lâu sau xưởng giấy dời qua sông, ba mẹ lại dở
nhà đi theo. Bên kia sông là vùng đất cù lao của con sông Ân Thường và
con sông Lại Giang bồi thành, vùng này rất trù phú, ít dừa mà ruộng lúa
nhiều, người dân nơi đây văn minh và da dẻ hồng hào nhất là con gái rất
xinh đẹp, một vùng đất rất sáng sủa, đầy nắng vàng, cây cối tốt tươi rồi
người ta mở thêm xưởng giấy rất nhiều, xưởng Gia Bình, xưởng Hồng
Nam.....v....v... tất cả đều nằm trên bờ con sông Lại Giang, xưởng giấy
núp dưới rặng tre, núp dưới bóng dừa, các xưởng đã thu hút một lượng
nhân công khá lớn, những mái nhà lớn núp dưới hai hàng dừa xanh tươi,
ngày ngày có tiếng cười nói của các nam nữ thanh niên đông vui rộn rịp.
Nơi đây thỉnh thoảng có bộ đội về dưỡng quân, những ngày tháng ấy làng
quê nhộn nhịp hẳn lên. Con đường nhà tôi là một đường nối dài từ bến đò
Trung Lương lên núi Phú Văn, lên thẳng đến chợ Đồng Dài. Ba mẹ thuê
đất làm nhà trên con đường này, đường được gọi là 'phố nậu tản cư' vì
có quán ăn, quán hàng xén của mẹ, có lò bún, lò đậu khuôn, lò kẹo, có
hai xưởng dệt có hàng may, đầu đường là mương nước dẫn ra ruộng, khúc
này được dân nơi đây đào cho sâu thêm và nới cho rộng ra để rửa chén
bát, thỉnh thoảng còn giặt đồ vì nước rất trong, như cái cầu ao. Xế
chiều ở dưới Bồng Sơn dân buôn bán gánh cá, cua lên bán ở chợ Đồng Dài,
rồi sáng hôm sau khoảng mười giờ lại gánh thơm mít trái cây vườn gánh
về, thường thường họ nghỉ chân trước nhà tôi vì trước nhà có cây vông to
tỏa bóng mát. Dạo này mẹ bán hàng xén phần đông bán cho các công nhân
xưởng giấy rất đắc còn ba làm máy giấy, ba sáng chế ra máy cán nứa để
làm bột giấy một ngày lợi được tám công nhân (khỏi đập nứa bằng tay)
các xưởng giấy đua nhau đặt hàng của ba, ba phải đi Qui Nhơn mua vật
dụng, cuộc sống khá giả, mẹ cho tôi đi học trường cô Hạp vợ của nhà thơ
Xuân Tâm, rồi mẹ lại có em bé lần nầy mẹ nghĩ dưởng thai một tháng trước
khi sinh nhưng rồi mẹ sinh khó, ba phải thuê người cùng ba khiêng mẹ
trên cái võng với đoạn đường bốn cây số, qua nhà thương Ân Thường để
sinh nhưng mà bảy ngày sau em mất, lần nầy cũng em trai mẹ cũng đau khổ
nhiều lắm nhưng mà không tức tưởi như em trước, còn tôi chưa thấy mặt
em lần nào vì em mất ở bệnh viện, một nỗi thương tiếc ngậm ngùi vây
quanh tôi
Dạo này tôi không còn học cô Hạp nữa mà tôi
học trường Cơ Bản vì cô dời nhà vào sát chân núi đi rất xa, ở trường Cơ
bản học sinh rất đông, trường nằm giữa khoảng đồng trống và cũng là chỗ
hội họp của thôn, xung quanh là cánh đồng bát ngát lúa xanh, rồi máy bay
bắn phá liên tục trường lại dời vào các nhà dân, rồi dời đến nhà đập
lúa mà phía trước có hai cái ao lớn, những giờ ra chơi tôi say sưa nhìn
các cô thôn nữ tác nước, với đôi tay nhịp nhàng đều đặn, lên xuống với
đôi gàu sòng, đưa nước từ dưới ao lên ruộng. Ít lâu sau trường lại dời
về gần núi Phú Văn, học trò lo đào hầm trú ẩn, một hầm tròn sâu khoảng
một mét có cái ngóc để chui vào, mỗi sáng đi học bốn giờ, trời còn mờ mờ
trong sương đêm, chúng tôi đã gọi nhau đi học, mỗi lần qua núi Phú văn
chúng tôi đua nhau chạy thục mạng, có khi rớt sách vở không dám quay
lại lượm
Bây giờ tôi đã chín tuổi rồi ba mẹ chỉ có
mình tôi, tôi rất được cưng chìu nhất là mẹ. Tôi đã học lớp ba rồi nhiều
lúc mẹ vẫn bồng trên tay, nhờ có mẹ kèm, tôi học rất giỏi đứng nhất
toàn trường nhưng mà gia đình tôi bị xếp loại tiểu tư sản nên không có
phần thưởng, lúc ấy ba buồn lắm. Rồi tôi lên lớp lớn, không còn học ở
núi Phú Văn nữa mà chúng tôi đi học ở Ân Thạnh, cách nhà khoảng hơn ba
cây số cũng đi sáng sớm và khoảng chín giờ thì về, trên đường về tôi
thường ghé lại lò bánh men, tôi thấy người ta làm bằng nước dừa trộn
với bột mình tinh, bánh bỏ vào miệng liền tan ra, một vị vừa ngọt , vừa
thơm thấm vào vị giác tê mê, tôi rất thích bánh này. Tôi lại lang thang
qua tiệm thuốc Bắc mà trước sân có một đám tiểu cúc rất lớn, tôi say
sưa ngắm những hoa cúc vàng nhỏ xíu đang khoe sắc dưới nắng ấm của buổi
sáng ban mai. Rồi chúng tôi phải qua một cánh đồng bát ngát lúa xanh,
những đợt sóng xanh cứ trôi, trôi mãi đến tận chân trời, tôi dẫm trên cỏ
non còn ước đẫm sương đêm, những vạc cỏ mềm, có hoa nhỏ li ti màu vàng,
màu tim tím bâng khuâng, rồi tôi lại qua những luống cỏ may chạy dài
theo con mương dẫn nước vào ruộng, có đường mòn để đi nhưng tôi thích
lội trong cỏ may để nghe cảm giác có những đốm chích nhẹ vào da, nó ngai
ngái lăn tăn, còn những mùa lúa chín vàng, một màu vàng quyến rũ,các
bác nông dân cắt lúa đông vui, tiếng nói cười rộn rã, mùi lúa thơm, mùi
rạ mới quyện vào mủi, vào tâm tư tôi những cảm giác đê mê, tôi nhìn theo
những gánh lúa kĩu kịt trên vai các bác nông dân, có những tia nắng
vàng lunh linh theo chân, theo lúa lấp lóa sáng ngời, còn mùa gặt xong
ruộng bừa rồi cấy, các công cấy có đeo một cái giỏ bên hông, gặp cua
hoặc cá liền chụp bỏ vào giỏ, những con cua từ trong hang bò ra giơ cái
càng hươ lên rồi vội vã thụt vào hang hoặc chạy mất hút, tôi thả hồn
theo dõi từng động tác của các con cá mương, cá nòng nọc đang từng đàn,
từng đàn bơi lội dưới nước trong. Trên trời xanh những đám mây trắng
lửng thửng trôi, trôi về nơi vô định, xa xa, xa tít tắp là dãy núi xanh
viền tận chân trời, lòng tôi đắm chìm theo bức tranh đồng quê mộc mạc
nên thơ, tôi ước gì mình vẽ được lên giấy, lên một nơi nào đó để lưu lại
mãi mãi đến ngàn sau.
Cẫm tú Cầu
Cẫm tú Cầu
Mời bạn đọc thêm cùng một tác giả: Cẩm tú Cầu
TUỔI THƠ TÔI ( 1 )
TUỔI THƠ TÔI ( 2 )
_________________________________________
No comments:
Post a Comment