* Tặng bốn cô giáo Loan, Vân, Cảm, Ren
Tôi đến Bồng Sơn vào mùa hè năm 72. Sau
những ngày tháng thảnh thơi “ru hồn mình bồng bềnh” bên dòng sông Đà Rằng nước
xanh biêng biếc. Bỏ lại núi Nhạn buồn vu vơ trơ trọi một mình giữa khoảng trời
mênh mông. Bỏ lại nàng và những đêm nhâm nhi cà phê Vị Thủy nghe nhạc Trịnh nát
vụn hồn mình. Bỏ lại những buổi chiều đứng ngẩn ngơ, ngắm chiều rơi êm ả trên
mặt đầm Ô Loan phẳng lặng, thấp thoáng vài bóng thuyền ngư phủ xa xa.
Thật ra đây không phải lần đầu tôi tới
Bồng Sơn. Đầu năm 70, tôi được đổi về Trà Quang. Ở đây gặp Lợi, anh bạn
người Huế rất dễ thương và cũng rất chịu chơi. Lợi thường rủ tôi hai đứa lái xe
đi Bồng Sơn… uống cà phê.
- Trà Quang thiếu gì
cà phê… Ra cà phê Lãnh được rồi, đi Bồng Sơn làm chi cho xa, cha nội.
Nhưng Lợi nhất định đi Bồng Sơn để ghé cà
phê “Rớt”. Cà phê Rớt nghe đâu là do ba cô nữ sinh thi rớt Tú Tài buồn tình mở
quán bán chơi. Có lẽ nhờ cái mác nữ sinh và cái tên nghe có chút… hơi hớm trí
thức nên quán rất đông khách dù mùi vị cà phê thì cũng lưng chừng… thơm ngon
tùy người. Và thế là vào những lúc buồn tình tôi và Lợi hay xách xe chạy về
Bồng Sơn, ngồi ngắm ba cô thi rớt cả tiếng đồng hồ. Bồng Sơn lúc đó tương đối
còn yên bình và sầm uất.
Lần về lại Bồng Sơn này không êm ả như những
lần trước. Chiến cuộc leo thang, đạn bom cày xới khắp nơi. Ruộng vườn tan
hoang, nhà cửa đổ nát. Đã điêu tàn lại càng thêm điêu tàn. Khuôn mặt người dân
u uẩn, nỗi buồn hằn sâu trên từng khuôn mặt. Người ta có thể đọc được
những dòng thơ của Quang Dũng trên từng ánh mắt:
Đất đá ong khô nhiều
ngấn lệ
Em có bao giờ lệ
chứa chan…
Chân ướt chân ráo
mới tới nhận nhiệm vụ, nhìn chung quanh trống trãi chẳng có ai quen. Chỗ
làm việc của chúng tôi ngay gầm cầu phía Nam , tồi tệ hơn tôi tưởng. Tôi ngán
ngẩm nhìn dòng Lại Giang nước cạn, chảy lững lờ buồn tênh như đời tôi trôi dạt
mãi từ dòng sông Đồng Nai tới tận nơi này. Vâng, quê tôi cũng có một dòng sông,
dòng sông rộng lớn hơn, nước sâu hơn, chảy mạnh hơn và cũng chứa chan phù sa da
vàng bồi đắp đôi bờ… Tôi chợt nhớ Mẹ quá. Chắc chắn Mẹ đang lo lắng và cầu
nguyện cho đứa con trai hằng đêm…
Đang thừ người ra với nỗi nhớ nhà và… nhớ
Tuy Hòa, nhớ cô bé Phúc những buổi tối lang thang đi ăn mì Quảng ở quán Cầu Ông
Chừ thì khoảng 12 giờ trưa, trên cao một đoàn trực thăng ầm ì từ hướng Qui Nhơn
bay tới, Hai chiếc gunship gầm gừ chao lượn, lúc thấp lúc cao, xoi mói từng ngõ
ngách… Rồi từng chiếc slick đáp vội vàng xuống bãi đáp, được một lúc những
chiếc trực thăng lại ù ù cất cánh. Bụi hồng bay lên che mờ dẫy phố. Những chiếc
trực thăng như những con chuồn chuồn “Khi vui thì đậu, khi buồn bay đi”. Sau
đó, tiếng súng, tiếng pháo… ì ầm vang dội lửa cháy, cát bụi tung mù mịt.
Tiếng pháo rồi cũng êm. Chiến trường ngổn
ngang. Nhà cửa thêm đổ nát… Lại có những người bị chết hai lần mà có khi là ba
bốn lần tại nơi này.
Những tháng ngày sau đó, lê bước trên những
đống gạch vụn, nhìn những vành khăn trắng mà xót xa. Ngồi lề đường ăn những dĩa
bánh dây, bánh xèo, uống những ngụm cà phê pha bằng nước mắt, thấy thương
Bồng Sơn quá ! Thương cho đồng bào mình chịu nhiều mất mát, tang thương.
Ngậm ngùi cho đất nước mình.
Đời tôi như chiếc con thoi, rày đây mai đó…
Năm 1973, một lần nữa tôi lại về Bồng Sơn, tái ngộ nơi xưa. Nơi xưa phố vẫn
vắng đìu hiu. Cà phê Rớt không còn. Những tà áo dài trắng thướt tha của các nữ
sinh trường Tăng Bạt Hổ cùng chiếc cặp ép hờ trên ngực cũng chỉ lờ mờ trong trí
nhớ. Nhà dân ở thì đổ nát, hằn vết bom đạn, chẳng ai buồn sửa sang.
Đợt về Bồng Sơn lần này có phần bình yên
hơn. Tôi ăn cơm tháng ở một quán bên kia đường đối diện chỗ tôi làm. Tôi được
làm quen ba cô gái ở quán này – khách ăn cơm tháng, ngày ba bốn cữ ghé quán mà
lị ! Nữ và Nhi là con gái ông bà chủ, Sinh là cô cháu. Ba cô, cô nào cũng
xinh cũng đẹp.
Ba cô đội gạo lên
chùa.
Một cô yếm thắm bỏ
bùa cho sư
Ước gì tôi được làm sư nhỉ ! Ước vu vơ vậy
thôi chứ làm sao mình thành sư được, nếu có thì cũng chỉ là một chú tiểu nho
nhỏ đứng cạnh những bậc đại sư phương trượng. Tôi nhủ lòng mình thôi hãy quên
đi giấc mộng ngậm ngãi tìm trầm. Tôi hàng ngày lầm lũi bận bịu với công việc
sáng trưa chiều tối, mặc những ngày mưa, mặc những ngày nắng. Có một ngày đẹp
trời, Ninh từ Trà Quang ra ghé thăm tôi.
- Ê ! Sao tự nhiên
tốt quá vậy cha ? Ghé thăm tui ? Khó tin đó nha… !
Ninh cười mủm mỉm ra vẻ bí mật rủ tôi đi
thăm một người.
- Này… Thăm Loan
đúng không ?
Tôi nghe phong phanh người yêu của Ninh dạy
học đâu ở ngoài này. Ninh dẫn tôi tới một quán billard. “Chơi bi da hả ?”, tôi hỏi. “Ừ…
Chơi bi da”. Bước vào quán tôi lựa cây cơ. Một cô gái từ phòng trong bước
ra chào Ninh mừng rỡ. Hai người lại bàn ngồi nói chuyện, còn tôi… bị chơi
bi da một mình. Và từ đó tôi lại biết thêm được ở thị trấn nhỏ bé này vừa mới
xuất hiện bốn cô giáo sắc nước hương trời, học Sư Phạm Quy Nhơn mới ra trường
đổi về, tô đẹp cho thị trấn đổ nát, nhỏ xíu, vốn hiếm thấy những tà áo dài
thướt tha. Ninh về lại Trà Quang gọi điện cho tôi: “Này ông bạn… Bên kia đường là ánh mặt trời đó !”. – “Bên kia đường
nào, cha ?” – “Thì bên kia đường chỗ mày ở đó… ”. Tôi cười to thành tiếng “À !
Một tà áo tím đúng không ?” – “Đúng năm trên năm… ”. Tà áo tím mảnh mai với
đôi mắt đẹp hình như lúc nào cũng reo vui này đã có lần tôi bám theo sau.
Hai cô giáo ở trọ ngay cái quán mà tôi ăn
cơm tháng, sáng sáng hai cô đi dạy thướt tha trong những tà áo dài, dáng cao
gầy gầy; tôi hay nhìn theo lẩm nhẩm hát:
“… Vai em gầy guộc nhỏ như cánh vạc về chốn xa xôi … ”. Trưa trưa lại thấy
thấp thoáng các cô về. Nói thế thì cứ nghĩ như là chúng tôi có nhiều dịp gặp
nhau lắm ! Nhưng thật là hiếm hoi, vì đó là quán ăn, khách ra vào thường xuyên,
mãi tới 9 giờ tối mới thưa người, mà nhất là các cô giáo thì cứ giam mình trên
gác hát bài “Gác trọ về khuya cơn gió
lùa… ” nên thật sự không khi nào được trò chuyện với mấy cô. Tôi cứ nghĩ và
thương cho các cô giáo trẻ đi dạy ở vùng lửa đạn, vất vả trăm điều.
Quán Lưu Ý nổi tiếng ở Bồng Sơn về món ăn
ngon, bây giờ lại càng nổi tiếng vì có năm cô gái đẹp “Ngũ Long Công
Chúa”. Những đêm Bồng Sơn sâu hun hút, yên tĩnh đến lạ lùng. Không có điện
đóm, ánh đèn dầu trong quán hắt chéo ra trước sân. Các cô bắc ghế ngồi xung
quanh, tôi cũng ngồi góp chuyện với cô Nữ, cô Nhi thỉnh thoảng cô Sinh giọng
nhè nhẹ: “Chú ơi… ! Chú ơi… ! ” –
(Xin đừng gọi anh bằng chú !). Còn cô giáo Cảm với nụ cười tươi vui. cô
giáo Ren đôi mắt sâu lắng… Tôi ngước nhìn lên bầu trời, muôn ngàn ngôi sao lấp
lánh. Đêm đẹp và huyền diệu quá ! Những giây phút ấy, tôi thấy mình hạnh phúc
và con tim mình được bình yên không còn cái cảm giác cô đơn của kẻ tha phương
Đêm khuya, sương xuống, các cô lần lượt đi
ngủ, quán đóng cửa. Tôi vẫn ngồi lại trước hiên nhà như canh cho từng giấc ngủ
yên bình… “Đêm nghe gió tự tình. Đêm nghe
đất trở mình vì mưa… ”. Rồi những đêm
mưa, mưa Bồng Sơn thì dai dẳng, rả rích suốt đêm ngày. Mưa thường làm chạnh
lòng kẻ xa nhà như tôi. Tôi châm điếu thuốc rồi ngân nga nửa ngâm nửa đọc:
… Ai đi qua mà chẳng
từng bịn rịn
Rời đau thương nào
đã mấy ai vui
Em lặng buồn nhìn
với lúc chia phôi
Tôi mạnh bước mà
nghe hồn nhỏ lệ…
(Nhà Tôi – Yên Thao)
Ừ! Em lặng buồn nhìn… làm xôn xao lòng ai.
Đã có vài lần tôi được ngồi gần cô giáo ấy và tìm thấy sự yên bình cho nỗi nhớ
xa xăm trong đôi mắt cô, dù chưa một lần trò chuyện, dù chưa một lần làm quen.
Có sao đâu… im lặng đâu có nghĩa là không nói gì.
Tháng 2/75 tôi rời xa Bồng Sơn thân yêu mà
tôi cứ ngỡ như là quê hương thứ hai của mình. Rời xa Lại Giang một vài lần tôi
mơ mộng. Thị trấn Bồng Sơn nhỏ bé, chiến tranh và điêu tàn với những ngày nắng
cháy da, với những đêm mưa dầm dề, dai dẳng. Rời xa những khuôn mặt dù chỉ
là thoáng qua hay quen biết sơ giao nhưng tôi vẫn thấy như là ruột thịt.
Tôi thương Bồng Sơn, yêu tất cả những người
Bồng Sơn. Yêu những con đường bụi cát, yêu những quán xá đơn sơ, yêu những ngôi
nhà đổ nát, yêu những hàng dừa xơ xác…
Tôi bước lên xe, hành trang chỉ vỏn vẹn một
chiếc ba lô. Tôi đi để lại Bồng Sơn một nửa con tim, nửa còn lại tôi mang theo
về Nam .
Tôi biết rằng lần ra đi này không mong có ngày trở lại. Chiến cuộc càng ngày
càng khốc liệt. Biết ra sao ngày mai ? Chiếc xe từ từ lăn bánh. Tôi không dám
nhìn, không dám đưa tay lên vẫy… vì sợ rằng tôi sẽ khóc… Chiếc xe ra tới giữa
cầu tôi quay đầu nhìn lại, dòng Lại Giang và thị trấn Bồng Sơn mờ dần, mờ dần
trong đôi mắt cay cay…
Lê Cát Bá
(Portland, OR - 12/8/11) ____________________________________
_________________________________________________________
Lê Cát Bá
(Portland, OR - 12/8/11) ____________________________________
_________________________________________________________
Chào Anh Huy và Anh Bá .
ReplyDeleteNào giờ QN chưa hân hạnh đọc bài viết của Anh Bá. Được đọc lần đầu qua cuốn đặc san Liên Trường do Anh Huy gởi tặng vào mùa hè năm ngoái. Đọc xong bài "Gởi người em trường nữ " tự nhiên lòng dấy lên một nỗi buồn mênh mông..
QN nghĩ có lẽ với lớp tuổi của mình vào thời đó , nhiều mất mác tan vở quá, nên bài thơ như khơi dậy một vết thương .. dù đã lành nhưng vết sẹo vẫn còn.
Cám ơn AnH Huy , qua anh em mới được đọc những bài viết hay, và trang nhà QN11 rất hân hạnh khi có sự hiện diện những bài viết của Anh Lê Cát Bá
Thay mặt độc giả QN Cám ơn Hai Anh rất nhiều . Và mong được đọc thêm những bài viết khác của hai Anh .
Trân trọng .QN11
Anh Lê Cát Bá ơi! Bài viết hay quá, cho người đọc rất nhiều cảm xúc, vui buồn lẫn lộn. Đoạn cuối làm người đọc không khỏi ngậm ngùi:
ReplyDeleteTôi bước lên xe, hành trang chỉ vỏn vẹn một chiếc ba lô. Tôi đi để lại Bồng Sơn một nửa con tim, nửa còn lại tôi mang theo về Nam. Tôi biết rằng lần ra đi này không mong có ngày trở lại. Chiến cuộc càng ngày càng khốc liệt. Biết ra sao ngày mai ? Chiếc xe từ từ lăn bánh. Tôi không dám nhìn, không dám đưa tay lên vẫy… vì sợ rằng tôi sẽ khóc… Chiếc xe ra tới giữa cầu tôi quay đầu nhìn lại, dòng Lại Giang và thị trấn Bồng Sơn mờ dần, mờ dần trong đôi mắt cay cay…
Cám ơn anh nhiều! Chúc anh luôn vui khoẻ!